29 tháng 7 2011

Tu luyện thể ngộ: Đề cao tâm tính và tầng thứ

Tu luyện thể ngộ: Đề cao tâm tính và tầng thứ

Tác giả: Học viên tại Trung Quốc


[Chanhkien.org] Khi đọc nhẩm «Chuyển Pháp Luân» ngày hôm nay, tôi đọc đến đoạn “Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận định người tốt xấu”, và để ý đến câu: “Là người tu luyện, [nếu] đồng hoá với đặc tính này, [thì] chư vị chính là người đắc Đạo; [Pháp] lý đơn giản như vậy.”. Sau đó, khi nghĩ về bản thân để làm sao đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn, tôi cảm thấy ngỡ ngàng. Vài ngày trước, con trai tôi đã làm một điều thật dại dột. Tôi rất không bằng lòng và thậm chí đã có cảm giác ghét nó. Và rồi, tôi nhận ra rằng không hề có thù ghét trong Chân-Thiện-Nhẫn. Thật thần kỳ, với ý nghĩ này, cảm giác ghét bỏ lập tức biến mất. Giờ đây, tôi đã nhận thức tốt hơn về việc làm sao chiểu theo nguyên lý Chân-Thiện-Nhẫn.

Lỗi lầm mà con trai tôi gây ra đã đem đến tổn thất lớn cho gia đình chúng tôi. Ở tầng bề mặt, nó đã bị người khác lừa và thật xui xẻo. Nhưng ở mặt khác, điều này có thể không phải là ngẫu nhiên. Trong «Chuyển Pháp Luân», Sư phụ nói về Pháp lý “không mất, không được”. Thực ra, bất cứ điều gì xảy ra trong xã hội người thường cũng không phải là vấn đề, bởi vì dù sao, nó là tầng thấp nhất trong vũ trụ. Cũng như vậy, nhiều điều chúng ta thấy chỉ là những hiện tượng bề mặt và nó có thể khá khác với tình huống thực tế. Là học viên, chúng ta sẽ dần dần bước ra khỏi trạng thái con người.

Trong «Chuyển Pháp Luân», Sư phụ giảng: “Tôi đã một lần khảo sát rất kỹ lưỡng, phát hiện rằng nhân loại đã có 81 lần [rơi vào] trạng thái huỷ diệt hoàn toàn; chỉ có một ít người sống sót; lưu lại theo một chút văn hoá tiền sử vốn có từ đầu, [họ] tiến vào một thời kỳ [mới], sống cuộc sống nguyên thuỷ. Nhân loại sinh sôi đông lên rồi cuối cùng xuất hiện nền văn minh. Trải qua 81 lần chu kỳ biến đổi như thế; tôi cũng chưa khảo sát được cho đến [tận thời điểm] ban đầu.”

Trong hành trình dài đằng đẵng của lịch sử, con người đã trải qua hết thế hệ này đến thế hệ khác. Bởi lòng ích kỷ, con người phải thoái hóa, và cuối cùng chịu hủy diệt. Chỉ rất ít người tốt còn sót lại và bắt đầu nền văn minh mới sau thảm họa. Khi nghĩ về những chu kỳ sống nối tiếp nhau này, tôi thấy con người thật là nhỏ bé.

Trong «Hồng Ngâm II», Sư phụ viết: “Thương khung trùng tổ, Càn khôn tái tạo” (Khán hảo). Sự hy sinh của Sư phụ cho Chính Pháp và cứu độ chúng sinh không thể mô tả bằng ngôn ngữ con người. Chúng ta rất may mắn được có vinh dự trợ Sư Chính Pháp. Và rồi tại sao chúng ta vẫn ôm giữ những chấp trước và không sẵn sàng từ bỏ chúng? Trong «Giảng Pháp tại Pháp hội San-Francisco năm 2005», Sư phụ nói: “Bất kể đó là nguyện vọng của Sư phụ hoặc là do cựu thế lực thao túng, thì chẳng phải đều là vì mục đích cuối cùng là các đệ tử Đại Pháp sẽ tu thành và tà ác sẽ bị giải thể?”

Gần đây, tôi có một giấc mơ, trong đó tôi làm vỡ một quả trứng. Tôi để quả trứng vỡ lên một chiếc đĩa, nhưng nó gần như chảy ra hết, do đó tôi đã chuyển nó sang một vật chứa lớn hơn. Tôi nghĩ nó cũng tương tự tình trạng tu luyện của tôi—đó là, tôi cần mở rộng tâm hơn. Mọi thứ quanh chúng ta tồn tại vì Pháp, và nó phụ thuộc vào chúng ta có xử lý tốt hay không.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2011/5/1/74054.html
http://pureinsight.org/node/6148

28 tháng 7 2011

Lời cảnh báo của lão đạo sĩ núi Thanh Thành

Lời cảnh báo của lão đạo sĩ núi Thanh Thành

Tác giả: Tân Dân

[Chanhkien.org] Nhà lý học Chu Hy thời Nam Tống (1130-1200 SCN) viết như sau trong quyển 2 cuốn «Văn Công Dịch Thuyết» của ông: “Trong lục kinh bởi vậy nói cái lý này, theo Dịch thì việc chưa xảy ra mà đã có lý ở đó rồi. Do đó dự ngôn của Thánh nhân có thể nói trước với người ta“. Ở đây, Chu Hy đã đề cập đến “việc chưa xảy ra mà đã có lý ở đó rồi”. Tại Trung Quốc ngày nay, do chịu ảnh hưởng độc hại của thuyết duy vật, thuyết vô thần trong hàng chục năm, nên rất ít người tin điều này. Trên thực tế, đạo lý “lý có trước việc” đã được các bậc Thánh nhân và trí giả khẳng định; chính nhờ cái “lý” này mà các Thánh nhân và trí giả có thể biết trước “việc”, từ đó nói ra để cảnh tỉnh thế nhân.

Điều này khiến tôi nhớ lại về lời cảnh báo của một lão đạo sĩ núi Thanh Thành. Người từng bán nhà cho tôi là một người luyện võ tên Vương Vị (tên mượn); ông là người Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Đầu năm 2001, Vương Vị kể với tôi một chuyện thế này: Giữa những năm 80 của thế kỷ trước, mẹ của ông mắc một căn bệnh mãn tính, chữa mãi không khỏi; ông và anh trai phải đưa mẹ lên núi Thanh Thành, thỉnh một vị lão đạo để chữa trị. Một ngày năm 1988, ông lên núi Thanh Thành đưa lương thực cho mẹ và bắt gặp lão đạo sĩ chữa bệnh cho mẹ ông. Đợi Vương Vị đi rồi, lão đạo sĩ mới hỏi mẹ ông: “Người hôm nay đưa lương thực lên đây là gì của bà?” “Là con tôi”, mẹ ông đáp. Lão đạo sĩ nói tiếp: “Tôi xem con bà, tính tình ngay thẳng, tính cách cương ngạnh, tuổi còn rất trẻ (lúc bấy giờ Vương Vị mới chỉ hơn 20 tuổi), dễ hành động theo cảm tính. Sang năm, nhân gian sẽ có một trường kiếp nạn, người nhà bà nhớ phải quản thật chặt anh ta, đừng để anh ta ra ngoài mà gây họa.” Sau khi nghe lão đạo sĩ nói xong, mẹ Vương Vị rất lo lắng, lập tức nhắn cho anh trai và chị gái ông: “Nhớ tăng cường quản lý em trai các con, đặc biệt là sang năm, không cho nó ra ngoài gây họa!”

Một năm sau, kiếp nạn mà lão đạo sĩ nói tới quả nhiên phát sinh: Năm 1989, tại Trung Quốc xảy ra thảm án “Lục Tứ” (thảm sát Thiên An Môn ngày 4/6), không ít thanh niên, sinh viên và dân chúng chỉ vì nhiệt tình ái quốc, đứng ra phản đối hủ bại mà bị chết oan dưới nòng súng và xích xe tăng của cỗ máy bạo lực Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Vương Vị nói, khi ấy ở cả Thành Đô lẫn Bắc Kinh, học sinh và dân chúng đều bị trấn áp tàn khốc. Sớm ngày 4/6, ông chạy bộ trên phố Đông, chạy tới trước bách hóa nhân dân Thành Đô (là 1 trong 10 bách hóa lớn nhất toàn quốc bấy giờ), nhìn thấy dưới bách hóa nhân dân khói bốc nghi ngút, một lúc lửa bốc ngút trời. Vương Vị quan sát một lúc lâu, mà không thấy nhân viên phòng cháy chữa cháy tới cứu hỏa. Ông cảm thấy thật kỳ quái, thành phố lớn thế này, tại sao không có xe cứu hỏa đến dập lửa? Sau đó ông mới biết, nguyên là hai ngày trước vụ cháy, bách hóa nhân dân đã chuyển hết thương phẩm có giá trị đi nơi khác, là chính phủ đã phái người châm lửa đốt bách hóa để sau đó vu oan cho sinh viên và dân chúng, cuối cùng lấy cớ để trấn áp.

Quả là không thể tin được! Sau đó một vị bằng hữu nói với tôi, vào tháng 7 năm 1999, sau khi ĐCSTQ do Giang Trạch Dân cầm đầu bức hại Pháp Luân Công, một vị quan lớn tại Tứ Xuyên vẫn không hay biết. Ông khá hiểu Pháp Luân Công, biết rằng người tập Pháp Luân Công đều chiểu theo nguyên tắc “Chân-Thiện-Nhẫn” để làm người tốt, hơn nữa Pháp Luân Công quả thật là có hiệu quả thần kỳ về chữa bệnh khỏe người; công pháp này đối với quốc qua, đối với xã hội, đối với gia đình thì chỉ có trăm điều lợi mà không có một điều hại, vì sao bỗng chốc lại biến thành “tà”, nói đàn áp là đàn áp ư? Ông cảm thấy rất khó lý giải, nên mới lên núi Thanh Thành tìm lão đạo sĩ để hỏi rõ căn nguyên. Sau khi lên núi Thanh Thành, ông đem «Chuyển Pháp Luân», cuốn sách chính yếu của Pháp Luân Công đưa cho lão đạo sĩ xem, và nhờ lão đạo sĩ giám định. Lão đạo sĩ lật sách xem một lượt và nói với ông một cách chân thành: “Đây là chân kinh, Pháp Luân Công là Đại Pháp đức cao khó gặp.” Lão đạo sĩ còn nghiêm túc cảnh báo ông: “Không được tham gia bức hại Pháp Luân Công, người bức hại Pháp Luân Công sẽ bị đọa vào vực thẳm vạn kiếp không trở lại!” Sau đó người này đối đãi tiêu cực với chỉ lệnh bức hại Pháp Luân Công của Trung ương ĐCSTQ, xếp đặt cho chính vị trí của mình. Nghe nói gia tài ông lên tới bạc tỷ, từng có người báo cáo ông lên Trung ương ĐCSTQ, nhưng kết quả không có gì xảy ra. Khi đến tuổi về hưu, người này rút lui khỏi chốn quan trường một cách an toàn.

Từ xưa tới nay, các bậc trí giả xác thực là có trí tuệ tiên tri tương lai và khả năng phân biệt chính-tà. Nhà tiên tri nổi tiếng người Pháp Nostradamus đã sớm dự ngôn về tội ác của chủ nghĩa cộng sản như sau: “Hai cuộc cách mạng sẽ được gây ra bởi kẻ mang lưỡi liềm tà ác” (“Two revolutions will be caused by the evil scythe bearer“—Các Thế Kỷ I, Khổ 54). “Lưỡi liềm tà ác” (evil scythe) ở đây chính là chủ nghĩa cộng sản, bởi vì lịch sử đã chứng minh rằng: chỉ có cờ xí của đảng cộng sản mới có ký hiệu “búa liềm”, “hai cuộc cách mạng” (Two revolutions) ở đây là chỉ đích thị cách mạng tháng Mười Nga trong Đại Thế chiến I và cách mạng cộng sản ở Đông Âu và Trung Quốc trong Đại Thế chiến II. Dự ngôn «Cách Am Di Lục» của học giả Triều Tiên Nam Sư Cổ là một cuốn sách thần kỳ tiết lộ thiên cơ. Từ 450 năm trước, Nam Sư Cổ đã dùng rất nhiều giấy mực để miêu tả chi tiết quá trình hạ thế truyền Pháp và cứu độ chúng sinh của “Chuyển Luân Thánh Vương”, thể hiện rõ sự hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp, cũng như mô tả rất nhiều tình tiết về cuộc đàn áp Pháp Luân Công của ĐCSTQ và đại kiếp nạn mà nhân loại sẽ phải đối mặt. Còn tại Trung Quốc, Tượng 41 dự ngôn «Thôi Bối Đồ» do Viên Thiên Cang và Lý Thuần Phong đồng sáng tác vào triều Đường cũng đề cập: “Cửu thập cửu niên thành đại thác, Xưng Vương chỉ hợp tại Tần Châu“; ở đây chỉ đích thị năm 1999, ĐCSTQ phạm sai lầm lớn khi đàn áp Pháp Luân Công, dẫn tới sự diệt vong không thể tránh khỏi. Từ 2500 năm trước, Phật Thích Ca Mâu Ni cũng nói với các đệ tử của Ngài rằng Pháp của Ngài sẽ không thể cứu độ thế nhân thời mạt pháp, đến khi ấy sẽ có “Chuyển Luân Thánh Vương” hạ thế truyền Đại Pháp và cứu độ chúng sinh. Ngài đã minh xác khuyên bảo đệ tử đời sau và con người thế gian rằng, đến thời kỳ mạt pháp thì không thể giữ cứng pháp lý trong kinh Phật, mà phải tiếp thụ Đại Pháp do “Chuyển Luân Thánh Vương” truyền. Những điều này đều đã được nghiệm chứng.

Hôm nay, là những người sống trong lúc giao thời giữa vũ trụ cũ và vũ trụ mới, chúng ta nên tiếp nhận lời cảnh báo từ Thần Phật và các bậc trí giả để có được lựa chọn đúng đắn cho bản thân mình, từ đó tiến nhập tương lai tươi sáng.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/5/1/65864.html

26 tháng 7 2011

Vườn thơ Chánh Kiến: Xuất phàm—Chính Thần—Ngộ được khi học kinh văn mới

Vườn thơ Chánh Kiến: Xuất phàm—Chính Thần—Ngộ được khi học kinh văn mới

Tác giả: Lý Ngộ, Chung Cổ

[Chanhkien.org]

Xuất phàm

Tác giả: Lý Ngộ

Tình khiếp tâm bất trầm,
Vô chấp nhất thân khinh.
Sư tôn độ đồ quy,
Thăng hoa tứ chân kinh.
Pháp trung càn khôn đại,
Thần lộ phàn tinh anh.
Tu tâm hành bất đãi,
Trường phong thượng thiên đình.

Tạm dịch:

Xuất phàm

Sạch tình tâm an bình,
Vô chấp thân nhẹ tênh.
Sư tôn độ đồ đệ,
Thăng hoa đắc chân kinh.
Trong Pháp càn khôn lớn,
Thần lộ chiếu quang minh.
Tu tâm không giải đãi,
Cưỡi gió lên thiên đình.

* * * * *

Chính Thần—học tân kinh văn nhất đắc

Tác giả: Chung Cổ

Đại Pháp đệ tử thị chính Thần,
Trợ Sư Chính Pháp khẩn khẩn cân.
Duy tồn nhất niệm hành Thần sự,
Điểm điểm tích tích Chân Thiện Nhẫn.
Thuận kỳ tự nhiên hồng trần lý,
Thần tư nhân thái cứu thế nhân.
Học Pháp tinh tiến tái học Pháp,
Tâm thanh khí sảng đoạn tư căn.

Tạm dịch:

Chính Thần—Ngộ được khi học kinh văn mới

Đệ tử Đại Pháp là chính Thần,
Trợ Sư Chính Pháp bám sát chân.
Chỉ tồn một niệm làm Thần sự,
Đâu đâu cũng hiện Chân Thiện Nhẫn.
Thuận theo tự nhiên nơi trần thế,
Tựa Thần giáng phàm cứu thế nhân.
Học Pháp tinh tấn lại học Pháp,
Tâm trong khí sáng đoạn tư căn.

* * * * *

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2011/7/25/76224.html

Vườn thơ Chánh Kiến: Học kinh văn mới của Sư phụ «Đệ tử Đại Pháp nhất định phải học Pháp»

Vườn thơ Chánh Kiến: Học kinh văn mới của Sư phụ «Đệ tử Đại Pháp nhất định phải học Pháp»

Tác giả: Vân Liên

[Chanhkien.org]

Học Sư phụ tân kinh văn «Đại Pháp đệ tử tất tu học Pháp»
javascript:void(0)
Đả khai võng hiệt mục bất chuyển,
Sư tôn Thánh dung tự nhãn tiền.
Nhãn hàm nhiệt lệ khán sổ biến,
Vô biên Pháp lý diệu quang diệm.
Truân truân giáo hối tấm tâm phi,
Tự tự cú cú nhuận tâm điền.
Pháp lý đối chiếu trảo tự kỷ,
Chư đa bất túc nhất nhất hiển.
Học Pháp hữu thời tâm lưu hiệu,
Lưu vu hình thức phí thời gian.
Chỉnh thể phối hợp cường điệu ngã,
Bất hợp kỷ nguyện cải dung nhan.
Tư tưởng thường bị ác toản không,
Hoàn đương thị kỷ cường chính niệm.
Tam sự bất năng đồng thời kiêm,
Trợ Sư thần lộ hữu khuyết hám.
Pháp lý vô biên ngộ tại tiên,
Tự cảm thực tu soa cự viễn.
Hạnh đắc Sư tôn hựu chỉ điểm,
Nhiên tắc nhưng tại mê mông gian.
Kim hậu cánh tu đa tinh tiến,
Sự sự đối chiếu Pháp trung nghiêm.
Khẩn cân Sư tôn Chính Pháp lộ,
Đoái hiện thệ nguyện tùy Sư hoàn.

Tạm dịch:

Học kinh văn mới của Sư phụ «Đệ tử Đại Pháp nhất định phải học Pháp»

Mở ra trang mạng mắt không chuyển,
Thánh dung Sư tôn tại nhãn tiền.
Đôi mắt đẫm lệ nhìn mấy lượt,
Hào quang Pháp lý chói vô biên.
Cung kính suy ngẫm lời Thầy dạy,
Từng câu từng chữ thấm tâm điền.
Đối chiếu Pháp lý tìm tự kỷ,
Bao nhiêu thiếu sót phải xới lên.
Có lúc học Pháp tâm lơ đễnh,
Chạy theo hình thức phí thời gian.
Nhấn mạnh bản thân hơn chỉnh thể,
Không hợp ý mình đổi dung nhan.
Tư tưởng thường bị tà can nhiễu,
Còn tự cho mình thật giỏi giang.
Không thể đồng thời kiêm ba việc,
Con đường trợ Sư còn gian nan.
Pháp lý vô biên cần ngộ trước,
Cảm thấy thực tu còn khó khăn.
May được Sư tôn lại chỉ điểm,
Thấy chỗ thua kém tự ăn năn.
Sau này càng tu càng tinh tấn,
Sự sự đối chiếu Pháp thật nghiêm.
Bắt kịp Sư tôn đường Chính Pháp,
Theo Thầy trở về tròn ước nguyện.

* * * * *

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2011/7/25/76224.html

Loạt bài về luân hồi (Kỳ 2): Đôi bạn

Loạt bài về luân hồi (Kỳ 2): Đôi bạn
Tác giả: Tiểu Tây Hài

[Chanhkien.org] Tiểu Tả Hài đi xuống đến một cảnh giới thì gặp Sư phụ. Sư phụ cười và nói sẽ cho cô bé một lễ vật. Vừa nói, Sư phụ vừa cầm trong tay một vật hình tròn màu trắng trông như hòn đá. Sư phụ vừa cầm vừa xoay nó, sau đó mở tay ra; “vèo”, một chú sư tử trắng chạy vào lòng bàn tay Tiểu Tả Hài. Tiểu Tả Hài cảm thấy chú sư tử này thật biết chơi đùa; cô bé vừa nhón tay, chú sư tử đã gắng sức dùng đầu để đẩy ra. Sư phụ dặn dò cô bé ba việc, một là phải dạy dỗ chú sư tử nhỏ này và phải trân quý nó. Hai là tại thời kỳ tối hậu của lịch sử, sau khi Chính Pháp bắt đầu, chú sư tử nhỏ này sẽ chuyên dùng để xử lý những kẻ mưu đồ bất chính và ác nhân. Ba là để nó làm bạn với Tiểu Tả Hài khi cô bé đi xuống.

Như Sư phụ nói, sau khi đi xuống, họ sẽ trở thành đôi bạn thân. Tiểu sư tử thường hóa thân thành vật cưỡi của Tiểu Tả Hài; khi mệt, tiểu sư tử sẽ trở lại hình dạng ban đầu và nằm trên vai Tiểu Tả Hài. Có lúc tiểu sư tử gắng sức chạy về phía trước, vừa chạy vừa hô: “Chúng ta thi xem ai chạy nhanh hơn”. Thường thì Tiểu Tả Hài ung dung chạy mà vẫn bắt kịp nó. Có lúc họ chơi trò bịt mắt bắt dê, tiểu sư tử trốn để Tiểu Tả Hài tìm. Có lúc họ chạy giữa không gian mênh mông, Tiểu Tả Hài bỏ xa tiểu sư tử, thế nhưng sau đó họ lại gặp nhau, trên đường vừa cười vừa nói, không ngừng xuyên qua tầng tầng thương vũ để đi xuống dưới.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2011/7/23/76130.html

25 tháng 7 2011

Loạt bài về luân hồi (Kỳ 1): Thệ ước đi xuống

Loạt bài về luân hồi (Kỳ 1): Thệ ước đi xuống

Tác giả: Tiểu Tây Hài

[Chanhkien.org] Tại một tầng thứ rất cao trong đại khung vũ trụ, có một tiểu hài 1 tuổi đang nô đùa; xung quanh đứa bé, ngoại trừ những áng mây ra thì không có sinh mệnh nào khác; cứ một chốc nó lại đuổi theo đám mây, rồi lại cưỡi mây, không lo không nghĩ, tự do tự tại.

Không biết bao nhiêu ngày tháng đã trôi qua, một ngày kia, Sư phụ vĩ đại từ Trời hạ xuống; Ngài ngồi trên đài sen lớn, thân thể to lớn vô tỷ, hiện vẻ uy nghiêm và từ bi vô hạn. Xuất phát từ bản năng sinh mệnh, tiểu hài quỳ bái trước mặt Sư phụ. Sư phụ nhìn nó một cách hiền từ, rồi chỉ tay xuống một nơi với những ngọn sóng đen cuồn cuộn, nói: “Con có dám đi xuống không?” Tiểu hài cao giọng nói: “Dám!” Sau đó Sư phụ dặn dò nó một lúc, đồng thời trên không trung hiện ra một cuộn giấy tự động ghi lại lời thệ ước. Khi cuộn giấy thu lại, Sư phụ dùng tay phải rút từ vai trái ra một vật giống như lông vũ, phóng vào tay tiểu hài và nói: “Thứ loại này không nhiều, con phải trân quý.” Vừa dứt lời, vật ấy hóa thành một cái vòng và gắn lên cổ tiểu hài.

Tiểu hài có thiên tính ham chơi đùa, nó thấy đài sen của Sư phụ và muốn lên đó chơi. Sư phụ cười, nói với nó: “Không được chơi đùa, thời gian không còn sớm nữa, phải đi thôi”.

Đứa trẻ tinh nghịch này hiện tại là một thành viên trong hạng mục của chúng tôi, tên gọi là “Tiểu Tây Hài”. Đây là tình cảnh lập thệ ước với Sư phụ và đi xuống mà cô nhìn thấy. Kỳ thực trong lịch sử, Sư phụ đã không ngừng cấp những thứ tốt nhất cho đệ tử Đại Pháp; nếu như không thể hoàn thành thệ ước, thì chúng ta thật có lỗi với lòng khổ tâm của Sư phụ.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2011/7/20/76063.html

23 tháng 7 2011

Vườn thơ Chánh Kiến: Ngộ tĩnh—Pháp Luân Đại Pháp hảo—Chân Thiện Nhẫn hảo

Vườn thơ Chánh Kiến: Ngộ tĩnh—Pháp Luân Đại Pháp hảo—Chân Thiện Nhẫn hảo

Tác giả: Khiết Tịnh

[Chanhkien.org]

Ngộ tĩnh

Cung cung kính kính nhất khỏa tâm,
Thanh thanh tĩnh tĩnh tu Đạo nhân;
Nhất chi liên hoa sơ trán phóng,
Kiền kiền tịnh tịnh bất nhiễm trần.

Tạm dịch:

Ngộ tĩnh

Cung cung kính kính một cái tâm,
Thanh thanh tĩnh tĩnh tu Đạo nhân;
Một nhành hoa sen vừa hé nở,
Kiền kiền tịnh tịnh chẳng nhiễm trần.

* * * * *

Pháp Luân Đại Pháp hảo

Pháp thuyền khai khải dục dương phàm,
Luân hồi chúng sinh thiên vạn niên;
Đại Pháp chỉ minh hồi quy lộ,
Hảo nhân mộng tỉnh dĩ thành tiên.

Tạm dịch:

Pháp Luân Đại Pháp hảo

Pháp thuyền khởi bến cánh buồm giương,
Chúng sinh luân hồi ngàn năm trường;
Đại Pháp soi sáng đường trở lại,
Người tốt tỉnh mộng đã thành tiên.

* * * * *

Chân Thiện Nhẫn hảo

Chân lý Đại Đạo thản đãng tâm,
Thiện giả vô tư trợ tha nhân;
Nhẫn khổ tinh tiến tinh cương chí,
Hảo tự lãng sa đào xuất kim.

Tạm dịch:

Chân Thiện Nhẫn hảo

Chân tu Đại Đạo tâm thản nhiên,
Người thiện vô tư giúp kẻ hèn;
Nhẫn khổ tinh tấn chí luyện rèn,
Tựa sóng cuốn cát hiển vàng kim.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2008/7/6/53677.html

22 tháng 7 2011

Lời tiên tri nghe được vào năm 1989

Lời tiên tri nghe được vào năm 1989

Tác giả: Tống Thần Quang

[Chanhkien.org] Một ngày cuối năm 1989, tôi gặp mấy vị bằng hữu trong giới khí công để đàm luận về sự kiện thảm sát Thiên An Môn phát sinh tại Bắc Kinh trong năm ấy. Nguyên là các sinh viên chỉ muốn chính phủ chỉnh đốn hủ bại, trở nên thanh liêm, nhưng kết quả lại phát sinh sự kiện thảm sát sinh viên yêu nước, gây chấn động thế giới. Bấy giờ, người ta đều cảm thấy chính phủ này thật tàn bạo, nỡ nào đối xử như vậy với sinh viên.

Một vị bằng hữu nói, sự kiện này đã sớm được dự ngôn từ thời cổ đại rồi. Sau đó tôi xem trong Tượng 52 «Thôi Bối Đồ» nói: “Ngân thương nhất điểm hiện Đông phương, Ngô Sở y nhiên hữu Đế vương, Môn ngoại khách lai chung bất cửu, Càn khôn tái tạo tại Giác Cang” (Tạm dịch: “Một điểm giáo bạc hiện Đông phương, Ngô Sở y rằng có Đế vương, Ngoài cửa khách đến không được lâu, Càn khôn tái tạo tại Giác Cang). Bốn câu tiên tri này, ở đây thuận tiện giới thiệu một chút. “Ngân thương nhất điểm hiện Đông phương” chính là tiên tri về Trung Quốc ở phương Đông—tại Bắc Kinh, Đảng Cộng sản Trung Quốc gây ra vụ thảm sát Thiên An Môn đối với sinh viên yêu nước (“Ngân thương” vừa có nghĩa là “giáo bạc”, vừa có nghĩa là “súng bạc”). “Ngô Sở y nhiên hữu Đế vương” chính là tiên tri về Giang Trạch Dân, người leo lên chức “Đế vương” sau sự kiện thảm sát Thiên An Môn; ông ta sinh ra tại địa giới nước Ngô, Sở thời Trung Quốc cổ đại, tức Chiết Giang, Giang Tô ngày nay. “Môn ngoại khách lai chung bất cửu” không phải là nói về thứ truyền thống Trung Quốc, mà là thứ ngoại lai, tức tà giáo cộng sản đến từ phương Tây sẽ không kéo dài được lâu tại Trung Quốc. “Càn khôn tái tạo tại Giác Cang” là nói về năm xuất sinh của Giác Giả thuộc Mộc (Giác) truyền chính Pháp; Đại Pháp mà Ngài truyền sẽ khiến đạo đức thế giới quy chính, nhân tâm hướng thiện.

Hôm ấy, sau khi nói rất nhiều chuyện, chúng tôi cuối cùng đàm luận về sự việc mạt pháp mạt kiếp, thế nhưng cũng chưa tìm ra manh mối. Một lúc sau, trước khi chia tay, một vị bằng hữu họ Lý mới trịnh trọng nói với mọi người: “Sư phụ của anh nói, nội trong vòng 2, 3 năm nữa, sẽ có một vị cao nhân chân chính bước ra truyền chính Pháp. Mọi người phải lưu tâm chú ý.”

Lúc này, một vị bằng hữu có công năng túc mệnh thông đứng bên cạnh nói tiếp: “Ngài truyền Phật Pháp, ngồi trên đài sen, có tư thế như thế này.” Vừa nói vừa giơ tay phải lên trước vai phải, mu bàn tay úp vào vai, lòng bàn tay ngửa ra; tay trái đưa xuống trước đầu gối trái, mu bàn tay úp vào đầu gối, lòng bàn tay ngửa ra.

Sau khi nghe họ nói, lại xem vị bằng hữu có công năng túc mệnh thông triển hiện tư thế, tôi nghĩ sau khi đại sự phát sinh, mình nhất định phải lưu tâm. Con người ta sống ở trên đời, rất dễ bị đủ loại công việc bận bịu làm cho mê mất. Những năm 1992, 1993, 1994, tuy tôi đều nghe nói có người giảng Pháp Luân Công, thế nhưng lúc ấy không để tâm, cũng không nhớ lại được câu nói của vị bằng hữu trong giới khí công. Tới tận năm 1995, tôi mới thực sự có duyên nhập tu luyện Đại Pháp. Sau đó, khi xem sách Pháp Luân Công, thấy ảnh người sáng lập ngồi trên đài sen đả thủ ấn, tôi mới nhớ lại câu nói của người bằng hữu năm xưa, tâm tình kích động đến nỗi khó dùng ngôn từ mà biểu đạt được.

Pháp Luân Đại Pháp được truyền xuất vào thời kỳ lịch sử đặc thù này, vậy nên rất nhiều dự ngôn cổ kim, trong và ngoài Trung Quốc đều có lời tiên tri. Xem các dự ngôn cổ kim, trong và ngoài nước trên Chánh Kiến Net, lại chứng kiến Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền hơn trăm nước trên thế giới, tôi đã quyết định viết bài này. Thành tâm khuyên các bạn, đừng do dự mãi nữa, nhớ đừng bỏ lỡ cơ duyên ngàn năm có một này để hối hận mãi mãi.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2009/10/18/62149.html

Bức thư của Diêm vương

Bức thư của Diêm vương

Tác giả: Cát Quang Vũ chỉnh lý

[Chanhkien.org] Ngày xưa có một lão nhân, sau khi chết đến gặp Diêm vương; ông trách Diêm vương không viết thư báo trước cái chết của ông, lại đột nhiên bắt ông chết, khiến ông không được chuẩn bị.

Diêm vương nói: “Khi mắt nhà ngươi mờ, là ta đã cấp bức thư đầu tiên cho ngươi; khi tai nhà ngươi lãng, là ta đã cấp bức thư thứ hai cho ngươi; khi răng nhà ngươi rụng, là ta đã cấp bức thư thứ ba cho ngươi. Thân thể ngươi ngày càng suy nhược, ngươi không biết ta đã viết bao nhiêu bức thư báo cho ngươi à? Có thể thấy ngươi không dụng tâm đọc, chấp mê bất ngộ. Giờ sao lại nói ta không viết bức thư nào cho ngươi?”

Lại có một thiếu niên, sau khi chết đến gặp Diêm vương, cũng trách móc Diêm vương, nói: “Mắt tôi còn sáng, tai tôi còn thính, răng tôi còn sắc: tóm lại, thân thể rất là cường tráng. Diêm vương gọi tôi đến, cớ sao không viết trước một bức thư báo cho tôi biết?”

Diêm vương đáp: “Ta đã từng viết thư cho ngươi rồi cơ mà! Ngươi không nhìn thấy hàng xóm phía Đông của ngươi, có người ba, bốn mươi tuổi đã chết; hàng xóm phía Tây của ngươi, có người mười, hai mươi tuổi đã chết; với lại, còn có đứa trẻ một tuổi hoặc con nít mới sinh đã chết; đây đều là ta viết thư cho ngươi đó!”

Kỳ thực, phàm là quanh mình phát sinh các chủng bất hạnh, thì đều là Thần đang nhắc nhở: lấy đó làm bài học; làm điều phi pháp, hành ác nhiều lần thì tự chuốc vạ vào thân, để từ đó khiến ta bỏ ác theo thiện. Phàm là quanh mình xuất hiện người tốt việc tốt, thì đều là Thần đang khuyến khích: phải học hỏi hướng thượng, lấy hiền làm thầy, lấy thiện làm vui, việc ở tại người!

Phật giảng: Sinh mệnh con người là vô thường, có tận sức tính toán thì cũng phải chết. Cũng giống như hạt sương buổi sớm, chỉ cần trút hết hơi thở là thân thể này đã trở thành cái xác không hồn rồi!

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2011/7/21/76117.html

21 tháng 7 2011

Tại sao trẻ em mất dần khả năng khi chúng lớn lên?

Tại sao trẻ em mất dần khả năng khi chúng lớn lên?

Tác giả: Đồng Vân

[Chanhkien.org] Người ta thường cho rằng khi con người ta lớn lên, kiến thức của họ tăng lên và khả năng của họ cũng được cải thiện. Liệu có đúng như vậy không?

Theo một nghiên cứu khoa học công bố ngày 17 tháng 5 năm 2002, các nhà khoa học tại Đại học Minnesota (Mỹ), Đại học Sheffield và Đại học College London (Anh) đã làm thí nghiệm với những đứa trẻ 6 tháng tuổi, 9 tháng tuổi, và người lớn về khả năng phân biệt những gương mặt người khác nhau, cũng như các động vật, chẳng hạn khỉ. Kết quả cho thấy khi trẻ em lớn lên, khả năng phân biệt các gương mặt, đặc biệt gương mặt các loài thú của chúng dần dần giảm bớt. Lấy ví dụ, những đứa trẻ dưới 6 tháng tuổi có thể phân biệt gương mặt các con khỉ một cách rất dễ dàng; trong khi đối với những đứa trẻ 9 tháng tuổi, khả năng này giảm xuống chỉ bằng mức phân biệt gương mặt người. Ngược lại, khả năng phân biệt các gương mặt người là như nhau với cùng nhóm tuổi.

Thật thú vị, năng lực của những đứa trẻ không chỉ hạn chế trong các lĩnh vực này. Nghiên cứu đã cho thấy trong khi những đứa trẻ 6 tháng tuổi có thể phân biệt gần 11 thứ tiếng, những đứa trẻ 9 tháng tuổi chỉ có thể phân biệt được ngôn ngữ mẹ để của chúng mà thôi.

Nghiên cứu của Đại học McMaster ở Canada cũng ủng hộ những phát hiện này. Các nhà nghiên cứu đã khám phá ra rằng mặc dù trẻ sơ sinh cần thời gian để thích nghi, chúng nhanh chóng sở hữu khả năng phân biệt đủ loại gương mặt. Khả năng của một người lớn khi phân biệt các gương mặt động vật, đặc biệt những loại không quen thuộc, là thấp hơn rất nhiều khả năng phân biệt các gương mặt người. Còn với trẻ em, khả năng của chúng khi phân biệt các gương mặt, dù là người hay động vật, là tương đương nhau.

Nghiên cứu này đã nói lên rằng: Mặc dù kiến thức dường như được tích lũy khi con người lớn lên, nhiều khả năng thực sự đã thoái hóa. Có nhiều trường hợp các thần đồng lại chỉ đạt được những thành quả tầm thường khi chúng lớn lên. Điều này là vì quá trình học hỏi cũng là một quá trình tích lũy quan niệm. Thực ra, trong các kiến thức được giảng dạy trong hệ thống giáo dục, liệu có bao nhiêu là hiểu biết chân chính về tự nhiên và xã hội? Kết quả là, con đường tìm kiếm chân lý đã trở nên gian nan và dài đằng đẵng.

Trên thực tế, đủ loại định kiến và quan niệm sai lầm, chẳng hạn như sự ích kỷ, đã được con người ta tích lũy hàng ngày một cách vô thức. Dần dần, khi họ lớn lên, đủ loại nhân tố sẽ trở nên cắm rễ sâu, và bản tính thiện lương của con người gần như bị mai một. Cũng giống như một mảnh vải sạch màu trắng. Một khi bị nhúng vào thùng thuốc nhuộm, nó rất khó để khôi phục trở lại màu sắc ban đầu.

Khi con người trưởng thành, họ không chỉ mất đi sự thuần khiết lúc sinh ra, mà còn lu mờ trí tuệ. Chúng ta có thể tưởng tượng rằng bản tính thiện lương chỉ có thể được bảo tồn hoàn hảo khi người ta tách xa khỏi những quan niệm ô nhiễm ngay từ khi còn rất trẻ. Đây cũng là con đường duy nhất để sở hữu trí tuệ vĩ đại. Tuy nhiên, rất khó để đạt được điều này.

Trên thực tế, con đường tu luyện từ xưa tới nay trong lịch sử loài người chính là con đường “phản bổn quy chân”, một quá trình trở về bản tính lương thiện và thuần khiết của sinh mệnh.

Tham khảo:

1. http://www.sciencedaily.com/releases/2002/05/020517080606.htm

2. Pascalis, O., M. de Haan, and C.A. Nelson, “Is Face Processing Species-Specific During the First Year of Life?” Science, 2002. 296 (5571): p. 1321-3.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/6/1/16282.html
http://pureinsight.org/node/206

Vứt bỏ danh lợi để sinh mệnh thăng hoa trong Pháp

Vứt bỏ danh lợi để sinh mệnh thăng hoa trong Pháp

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp đại lục

[Chanhkien.org] Tôi là một đệ tử Đại Pháp công tác trong chính phủ. Trước khi tu luyện, tôi rất yếu và ốm liên tục. Khi hơn 30 tuổi, tôi mắc chứng dày xương. Sau đó tôi bị viêm khớp, loét dạ dày và dị ứng. Ngoài những bệnh trên, tôi cũng rơi vào vòng tranh đấu chính trị, lừa dối, và danh lợi trong môi trường chính phủ. Vào lúc ấy, tôi thường tự hỏi: “Con người sống như thế để làm gì?” Nếu có thể, tôi sẽ đi lên núi và tránh xa khỏi nơi con người sinh sống để tu Đạo.

Tháng 4 năm 1995, tôi xuất viện và trở lại công tác. Tôi có một đồng nghiệp mới và anh ấy tập Pháp Luân Công. Anh để ý thấy tôi uống thuốc khi làm việc, do đó anh khuyên tôi tập Pháp Luân Công. Lúc bấy giờ tôi không biết gì về khí công. Tôi hỏi anh: “Liệu Pháp Luân Công có thể chữa bệnh của tôi không?” Anh trả lời có và cho tôi mượn cuốn Pháp Luân Công. Sau khi trở về nhà, tôi đọc liên tục cuốn sách mà không dừng lại. Tôi nghĩ cuốn sách thật là tuyệt. Nó giải thích được thật nhiều bí mật trong vũ trụ. Tôi cảm thấy mình thật là nhỏ bé. Sau đó vào tháng 5, tôi tham dự một lớp xem các bài giảng của Sư phụ. Kể từ đó, tôi đã bước đi trên con đường tu luyện và cảm thấy may mắn được trở thành đệ tử Đại Pháp.

Sau khi bắt đầu tu luyện, tôi đã rất nỗ lực làm người tốt chiểu theo tiêu chuẩn “Chân-Thiện-Nhẫn’. Tôi không chỉ trở nên khỏe mạnh, mà còn thăng hoa rất nhiều cả về cảnh giới tư tưởng. Đơn vị công tác của tôi là một môi trường nơi mọi người theo đuổi danh tiếng và lợi ích; nói cách khác, mỗi người đều đắm chìm trong danh lợi. Sau khi hiểu về Pháp lý “không mất không được”, “chuyển hóa nghiệp lực”, v.v. tôi không còn truy cầu danh lợi nữa. Khi lợi ích cá nhân của tôi bị mất mát hay xâm phạm, tôi có thể vứt bỏ chúng và điều đó không thể làm phiền tôi; khi bị đối xử bất công, tôi đã có thể bình tĩnh và không tranh cãi hay thù hận người khác. Tôi quan tâm tới người khác trước, đồng thời có thể nhẫn chịu và tha thứ. Đối với những điều trực tiếp liên quan tới lợi ích cá nhân, chẳng hạn như thăng tiến và tăng lương, tôi coi chúng thật tự nhiên, cho dù tôi nhận được chúng hay không.

Năm 2002, cơ quan tôi trải qua một đợt cải tổ. Tất những người quản lý bậc trung cần phải trải qua một cuộc thi để được giữ lại. Năm người đã đăng ký vào vị trí của tôi. Giám đốc muốn tôi đăng ký vào cùng vị trí. Theo yêu cầu của Sư phụ, tôi đã không tranh đấu với người khác vì danh lợi. Thay vào đó, tôi nói với giám đốc rằng tôi sẽ rời bỏ vị trí. Trong con mắt người khác, vứt bỏ danh lợi sang một bên thật là đáng sợ, cũng giống như vứt bỏ mạng sống vậy. Có người hỏi tôi: “Anh mất trí rồi à? Người khác còn mơ về vị trí của anh, vậy mà anh lại muốn bỏ?” Tôi chỉ mỉm cười.

Trước khi tu luyện, tôi thích viết các bài báo cho kênh truyền thông ở địa phương. Ở bề mặt, tôi có ý định nổi tiếng, hay tâm cầu danh. Sau khi tu luyện, tôi nhận ra nó là một chấp trước rất xấu và tôi cần vứt bỏ nó. Do đó, tôi không bao giờ viết bài cho người thường nữa. Dần dần, tôi coi nhẹ những sinh hoạt xã hội này và tập trung vào Đại Pháp. Lúc đầu, tôi phân phát tài liệu Đại Pháp; sau đó, tôi bắt đầu sản xuất tài liệu Đại Pháp. Trong những năm gần đây, tôi chịu trách nhiệm cho một vài dự án chứng thực Pháp ở địa phương. Ngoài ra, tôi vận dụng kỹ năng của mình để viết các bài viết về tu luyện. Tôi biết rằng tất cả kỹ năng mà đệ tử Đại Pháp đang có đều đã được an bài để sử dụng cho chứng thực Pháp ngày hôm nay, để cứu độ chúng sinh, và trợ Sư Chính Pháp. Sinh mệnh của chúng ta tồn tại vì Pháp.

Tôi đã tu luyện hơn 10 năm. Dưới sự bảo hộ từ bi của Sư phụ, tôi đã thăng hoa trong Pháp. Tôi sẽ làm tốt hơn nữa để không phụ lòng mong đợi của Sư phụ và chúng sinh.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/8/4/67704.html
http://pureinsight.org/node/6025

18 tháng 7 2011

Văn hóa truyền thống: Tránh sắc như tránh tên, phú quý con cháu hưng

Văn hóa truyền thống: Tránh sắc như tránh tên, phú quý con cháu hưng

[Chanhkien.org] Lữ Thanh sống vào triều Minh, thường ngày ưa thích đàm luận việc dâm ô và nhìn trộm phụ nữ; khi anh ta được 30 tuổi, gia cảnh bần cùng đến cực điểm, hai người con đều lần lượt qua đời.

Một ngày kia, Lữ Thanh đột nhiên chết bất đắc kỳ tử và nhìn thấy ông nội rất tức giận, nói với anh ta: “Nhà chúng ta hai thế hệ đều tích thiện, mệnh của cháu lẽ ra phát tài lớn; chẳng ngờ đến cháu, tâm ưa sắc đẹp, mắt miệng đều tạo nghiệp chướng, phúc báo đều sắp cạn sạch rồi. Ta e rằng cháu sẽ thật sự phạm phải việc tà dâm, như thế hậu duệ cả nhà chúng ta sẽ không còn hy vọng gì nữa; do đó ta mới cầu xin Diêm vương bắt cháu xuống âm tào địa phủ để xem xem, cho cháu biết lợi hại thế nào!”

Lữ Thanh nói: “Nghe nói tư thông với vợ người khác mới phải nhận báo ứng là tuyệt tự; sự thật cháu rất sợ nhận phải báo ứng này nên mới chưa từng phạm phải!”

Vị Minh lại đứng bên cạnh nói: “Há chỉ là tuyệt tự không thôi! Nếu như là người nữ chủ động đến cám dỗ mà tự mình thuận theo chứ không chối từ, thì tội nghiệt này chính là báo ứng tuyệt tự. Còn nếu là tự mình dụ dỗ thúc ép người ta, hơn nữa tái phạm nhiều lần, làm bại hoại luân thường người ta, khiến người ta phá thai, thậm chí giết chồng giết con, thì chính là đại tội, há chỉ là tuyệt tự không thôi? Đối với tội tà dâm, pháp luật ở thế gian quá ư khoan hồng, thế nhưng pháp luật ở âm gian lại rất nghiêm khắc. Phàm là người hễ động dục niệm tà dâm, thì ba thần xác sẽ đến tự thú, Táo quân và Thành hoàng sẽ đến trình tấu sự thật; nếu như họ giấu diếm hoặc bỏ sót, thì cũng là lỗi nặng! Ngươi thử xem hôm nay xử trí thế nào thì sẽ rõ ngay.”

Một lúc sau, đám quỷ tốt đưa rất nhiều phạm nhân từng phạm tội tà dâm đến trước mặt; họ đều đeo xiềng xích, quỳ trên mặt đất; Diêm vương nghiêm khắc phán: “Người này biến thành kẻ ăn xin vừa điên vừa câm, người này biến thành kỹ nữ mù mắt, người này hai đời làm trâu, người này mười đời làm heo.” Diêm vương phán xét xong xuôi, đám quỷ tốt lại áp giải họ đi đầu thai.

Lữ Thanh xem xong sợ đến sởn cả gai ốc. Vị Minh lại nói: “Còn có nhiều trừng phạt nghiêm khắc hơn nhiều! Ngươi nhất thiết không được vì chốc lát thèm muốn hoan ái mà đánh mất thân người, cần phải tránh sắc như tránh mũi tên, đồng thời mau chóng in bài văn để khuyên răn người đời!”

Một lúc sau, Diêm vương lệnh thả Lữ Thanh về dương gian. Lữ Thanh in một vạn bài viết du địa phủ để cảnh tỉnh thế nhân, lại rất cố gắng làm việc thiện.

Khi Lữ Thanh được 40 tuổi thì liên tục sinh hai người con, gia tài lên tới bạc triệu, giàu có phi thường. Lữ Thanh sau đó quyết định đoạn tuyệt duyên trần, đi về Nam Hải tu Đạo.

Đây là đồng hương Thái Tinh của Lữ Thanh ghi lại.

Dịch từ:

http://www.minghui.org/mh/articles/2005/9/8/109178.html
http://pureinsight.org/node/3361

Thưởng thức thơ Đường: “Đăng Quán Tước lâu”

Thưởng thức thơ Đường: “Đăng Quán Tước lâu”

Tác giả: Vương Nhất Phong

[Chanhkien.org]

Hán Việt:

Bạch nhật ỷ sơn tận,
Hoàng Hà nhập hải lưu.
Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thượng nhất tầng lâu.

—Vương Chi Hoán «Đăng Quán Tước lâu»

Tiếng Anh:

The mountains eclipse the setting sun,
While seawards the Yellow River runs;
To widen your view to hundreds of miles,
Come to the upper storey by climbing one more flight.

—“On the Stork Tower” by Wang Zhihuan

Diễn nghĩa:

Mặt trời dựa sát trên triền núi,
Hoàng Hà chảy hòa vào biển sâu.
Muốn ngắm hết cảnh ngoài ngàn dặm,
Phải trèo thêm lên một tầng lầu.

—«Lên lầu Quán Tước» của Vương Chi Hoán

Dịch thơ:

Mặt trời nghiêng sát núi,
Hoàng Hà hoà biển sâu.
Muốn nhìn xa nghìn dặm,
Phải lên thêm tầng lầu.

—«Lên lầu Quán Tước» của Vương Chi Hoán

Đây là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt mà ai ai cũng ưa chuộng, được truyền tụng từ nghìn xưa, sáng sủa trôi chảy, tả cao nhìn xa, lại chỉ dùng số từ rất ít mà mở ra triết lý thâm sâu.

“Bạch nhật ỷ sơn tận, Hoàng Hà nhập hải lưu”, ánh chiều tà chìm xuống giữa núi non mênh mông, dòng Hoàng Hà chảy xiết ào ào đổ ra biển, khí thế hào hùng, bao la hùng vĩ, vừa lặn vừa phi, động và tĩnh đối nhau, cảnh tượng hùng hồn tráng lệ; mặt trời, núi non, biển cả, Hoàng Hà, đặt bút là tỏa sáng, khái quát mà trọn vẹn. Tiếp đó là hai câu “Dục cùng thiên lý mục, Cánh thượng nhất tầng lâu”, ngòi bút vừa chuyển, tự nhiên đã trở về, chuyển sang ngụ ý về triết lý nhân sinh, ngữ ngôn giản lược, không hùng biện thao thao mà chỉ đưa ra một phép so sánh, một lời mà chỉ rõ huyền bí của sự thăng hoa cảnh giới. Từ xưa đến nay, nói về leo cao nhìn xa thì đã có một biển thơ, sách chất như núi, nhưng chỉ bài thơ này của Vương Chi Hoán là nghìn đời ngâm xướng, thượng đẳng của thượng đẳng, thượng thừa của thượng thừa.

Bạch nhật ỷ sơn tận,
Hoàng Hà nhập hải lưu.
Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thượng nhất tầng lâu.

Cảnh quan như thế này, đời người thì sao đây?

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2002/7/11/16713.html
http://pureinsight.org/node/1063

Câu chuyện có thật về luân hồi: Thiên nhai phổ độ

Câu chuyện có thật về luân hồi: Thiên nhai phổ độ

Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Nếu như nói, trong chu kỳ văn minh nhân loại lần này, sự kiện Phật Di Lặc hạ thế là vô cùng hy hữu, thì trong thời kỳ viễn cổ, hành trình tu luyện và phổ độ của một vị nữ Phật là hy hữu đến nỗi không cách nào dùng ngôn ngữ để hình dung được.

Bài viết này chỉ có thể dùng ngôn ngữ khái quát nhất để tóm tắt hành trình trong cả một kiếp người.

Cách đây 200 nghìn năm, tại nơi mà ngày nay là Mexico có một quốc gia nọ; Quốc vương quốc gia này rất có đức hạnh, ông có một vị đại thần cũng rất đức cao vọng trọng. Sau đó phu nhân của vị đại thần này sinh hạ được một bé gái, tên gọi là Nhụy Hinh (nghĩa là mùi hương thơm ngát của nhụy hoa bay xa). Khi vừa sinh ra, trên mình bé gái này đã có một vòng hào quang, thần sắc mười phần uy nghiêm. Tại quốc gia này có một gian thần, sau khi biết tình huống của Nhụy Hinh, ông ta đã tới Hoàng cung tìm Hoàng hậu, vu cáo đứa bé này tương lai sẽ soán ngôi. Sau đó, Hoàng hậu nói dối rằng đêm ấy nằm mơ thấy một đứa bé gái tương lai sẽ giết bà và nhà Vua, mong Quốc vương đem đứa bé đi xử tử. Nhà Vua sáng suốt, cảm thấy khó hiểu, chỉ nói rằng đó chỉ là một giấc mơ thôi, đừng suy nghĩ nhiều. Hoàng hậu vẫn nuôi hy vọng và phái người thân tín truyền thánh chỉ, nói phải đem đứa bé quăng ra biển cả. Vị đại thần này không biết thánh chỉ là giả, nên buộc phải đem đưa bé giao cho hạ thần. Sau đó vị hạ thần này cưỡi ngựa ra bờ biển, thì đột nhiên bụng ông quặn lên, đành phải đặt đứa bé xuống để đi vệ sinh. Sau khi trở lại, ông phát hiện thấy đứa bé đã biến mất; ông nghĩ có lẽ nó đã bị thú hoang tha đi rồi. Khi trở về, ông bẩm báo đã hoàn thành mệnh lệnh của Hoàng hậu.

Sự việc này không hề được tấu lên nhà Vua.

Lại nói về đứa bé kia. Kỳ thực đứa bé đã bị một tên thổ phỉ ẵm đi; họ trú tại một nơi rất yên ắng gần đó. Nhụy Hinh sống tại đó cho tới năm tuổi.

Một ngày nọ, một người hầu gái đem đứa bé tới bờ biển nô đùa. Khi ấy bỗng nhiên từ trên không trung, một vị Thần tiên từ từ hạ xuống, chỉ thấy vị Thần này:

Cưỡi trên đài sen có bảy tầng,
Vô hạn uy nghi hạ thiên không.
Đơn thủ lập chưởng từ bi hiện,
Cười giúp Nhụy Hinh đắc thần thông!

Cô hầu gái vội vàng kéo Nhụy Hinh quỳ lạy dưới mặt đất. Vị Thần nói: “Nhụy Hinh, con sắp có sư phụ dạy con cách giải thoát khỏi sinh tử. Kiếp này con phải trải qua nhiều ma nạn, chỉ để phổ độ chúng sinh; tương lai qua một thời gian rất lâu dài, ta sẽ để con người nghĩ về nó và khải ngộ người đời sau. Con nhất định phải nhớ lấy điểm này. Hài tử, phải nhớ ‘chịu khổ để hoàn thành trọng trách!’” Nói xong, vị Thần phóng vào tay Nhụy Hinh một vật giống như chiếc khăn tay: “Nhớ lấy, lúc nguy nan thì nhìn xem mấy chữ trên đó”. Nhụy Hinh cầm nó xem một lúc, cuối cùng nói: “Chẳng có chữ gì trên đó cả!” Vị Thần nhìn gương mặt đáng yêu của cô bé, cười nói: “Con xem lại đi”. Nhụy Hinh nhìn lại thì thấy trên đó xuất hiện vô số chữ vàng, hơn nữa còn chuyển động. Tuy nhiên cô bé không hiểu, chỉ cảm thấy nó không phải là chữ thường, mà có năng lượng. “Giữ lấy cho kỹ”, nói xong vị Thần biến mất.

Khi ấy Nhụy Hinh nhìn lại chiếc khăn tay thì lại thấy y như cũ, không có chữ nào. Thế nhưng sự việc này đã in sâu vào tâm trí cô bé trong suốt đoạn hành trình.

Khoảng 3 tháng sau, nhóm thổ phỉ này gặp phải một đám giặc cướp khác và xảy ra một trận chiến sống còn. Nhụy Hinh được cô hầu gái bế đi chạy trốn, tới tận sâu trong rừng rậm; sau khi chạy quá mệt, cô hầu gái ngồi trên một tảng đá và ngủ thiếp đi. Sau khi tỉnh lại, cô cảm thấy rất đói. Khi cô đi quanh tìm đồ ăn, đột nhiên có tiếng hát của ai đó vọng lại, tựa hồ muốn nói:

Nhân sinh bể khổ vạn dặm trường,
Trong mê kẻ phàm nghĩ vẩn vương.
Như ta ca hát chốn rừng núi,
Minh tỏ chân lý tìm cố hương.

Cô hầu gái nghe xong vận hết sức lực hét to: “Tôi đang đói lắm, có thể cho tôi và đứa trẻ năm tuổi một chút gì để ăn không?” Một lúc sau, lại vang lên một bài ca khác:

Chân trời xa thẳm khổ biết bao,
Trải qua ma nạn đói cồn cào.
Nay ta mang đến đồ lót dạ,
Ăn no lên đường tu đại Đạo!

Bước tới là một người trung niên, thân mặc thường phục, mặt để râu dài. Ông cầm trên tay mấy quả trái cây và đưa cho họ ăn. Cô hầu gái đỡ lấy hai quả và cho Nhụy Hinh ăn, có lẽ Nhụy Hinh đã quá đói nên ăn xong lại còn đòi thêm. Khi ấy người kia trên tay chỉ còn một quả, cô hầu gái lúc ấy chỉ nghĩ về trải nghiệm thần kỳ của cô và Nhụy Hinh ở bờ biển, nên đã đem nốt quả trái cây kia cho Nhụy Hinh ăn. Thế nhưng khi cầm nó trên tay, Nhụy Hinh đưa lại nó cho cô hầu gái, nói chị ăn trước đi, em đã ăn hết hai quả rồi. Nhìn thấy cảnh này, người kia cười lớn, thế là chỉ sau một cái vung tay, trên mặt đất xuất hiện rất nhiều trái cây. Nhụy Hinh ăn xong rồi cười, vừa cười vừa chơi đùa…

Sau khi ăn xong, họ được đưa tới nơi tu hành của người kia; Nhụy Hinh bắt đầu 14 năm tu hành của mình.

Họ chủ yếu là tu tâm, tăng cường nỗi sợ hãi luân hồi sinh tử của thế gian, đồng thời ngộ rõ sự vĩnh hằng của chân lý và sự tốt đẹp của thiên giới. Về sau, vị tu Đạo này giảng cho họ những câu chuyện tu luyện của các vị cổ Phật và những người tu luyện trong quá khứ. Họ nghe xong thường ứa nước mắt. Họ phát nguyện đi khắp thiên hạ, cứu giúp thương sinh!

Sau đó, họ chia tay vị tu Đạo kia và ra khỏi rừng già. Khi ấy tại nơi đó có mấy quốc gia liền (kỳ thực gọi là “bộ lạc” thì chuẩn xác hơn). Bởi vì sau khi lớn lên, Nhụy Hinh xinh đẹp phi thường nên bị một bộ lạc cướp đi, còn cô hầu gái bị sát hại. Khi ấy Nhụy Hinh không chút sợ hãi, cô nhớ lại câu nói của vị Thần tiên bên bờ biển: trong lúc nguy nan, hãy nhớ chiếc khăn tay. Khi cô vừa nghĩ đến chiếc khăn tay, chiếc khăn trong người cô tự động mở ra (bởi vì hai tay cô đang bị trói), trên đó hiện hai dòng chữ:

Trong lúc nguy nan chịu nhẫn nhục,
Tâm không sợ sệt vẫn thản nhiên.

Mấy tên giặc này đem cô giam trong một căn phòng, để cô làm vợ tên tướng cướp. Cô quyết không chịu. Họ bèn đem cô trói vào cây cột lớn trên một tảng đá ngầm bên bờ biển, để mặt trời thiêu đốt cô. Cảm giác này thật khó chịu đựng. Mỗi ngày, họ chỉ đem cho cô một chút đồ ăn; do đó chỉ vài ngày sau, cô gầy đi rất nhiều. Thế nhưng cô vẫn chiểu theo hai câu trên chiếc khăn để hành xử. Sau đó, nhờ một người nói giúp, cô được đưa xuống và thả ra.

Trải qua đợt ma nạn này, cô dường như đã có thể thấy được rất nhiều thứ, và tư tưởng cô càng thêm kiên định.

Sau đó, khi nghỉ tại một nhà trọ trong thành phố, cô bị người chủ hạ độc và bán cho một kỹ viện.

Tại đây, cô phải chịu đủ loại đánh đập và ngược đãi, mình đầy thương tích; đói và rét đã giày vò cô như chết đi sống lại nhiều lần. Một lần cô nằm mộng, mơ thấy chiếc khăn tay mà trên đó chỉ một một chữ “Nhẫn” rất lớn. Cô hiểu rằng mình phải trải qua đợt khảo nghiệm này mới có thể hoàn thành sứ mệnh cứu độ chúng sinh trong kiếp ấy.

Sau đó, cô bị đánh đến mức chỉ còn thoi thóp, bị người ta ném ra đường phố vắng; trong cơn gió lạnh, cô choàng tỉnh. Một mình cô loạng choạng đi trên phố, hướng về phía những người vẫn còn chút thiện niệm…

Cô vừa xin ăn, vừa giảng về đạo lý thoát ly sinh tử cho con người. Lúc đầu, do người ta mê quá sâu nên không tin, thế nhưng cô vẫn từ bi và kiên nhẫn, không ngừng nói với họ tính trọng yếu của trọng đức, về sự vô thường của thế gian. Thế là dần dần, người ta bắt đầu tin những gì cô nói, bắt đầu truyền bá những điều cô giảng.

Cứ như thế, mấy năm trôi qua, ảnh hưởng của cô đã càng ngày càng lớn. Khi ấy tại vương quốc của phụ thân cô, lão Quốc vương đã qua đời, và Quốc vương mới rất dốt nát. Cô quyết định thiện hóa vương quốc này.

Chẳng ngờ vừa tới nơi, cô đã bị gian thần hãm hại, tống vào đại ngục.

Trong ngục, các phạm nhân dùng những từ ngữ thô bỉ nhất để nhục mạ cô, đánh đập cô, hành hạ cô, để cô đeo cùm, đeo đá vào bàn chân cô, ngoài ra mỗi bữa chỉ cho cô ăn một chút cháo… Hôn mê, bỏ mạng có thể đến bất cứ lúc nào!

Loại giày vò này kéo dài tới 10 năm! Sau này, những gian thần kia vì mưu phản mà bị giết chết; Quốc vương dốt nát phóng thích cô, để cô tiếp tục hồng truyền triết lý.

Tại quốc gia này, sau khi được cô cứu độ hơn 5 năm, rất nhiều dân chúng đều minh bạch về sự vô thường của trần thế, đều phát tâm tu hành, đề cao phẩm chất đạo đức.

Sau đó, một kẻ theo oai đạo thấy cô được hoan nghênh, bèn nghĩ ra một độc kế. Hắn lừa cô tới một hòn đảo và bỏ cô lại đó. Cô được đưa vào một căn nhà đá, cứ mấy ngày mới có một người tới cấp cho cô chút thức ăn. Mùa hè khát quá thì trời đổ mưa, cô nhoài người ra cửa sổ, há miệng hớp lấy những giọt nước mưa; mùa đông giữa trời rét như cắt da cắt thịt, cô ngồi xếp bằng đả tọa, mỗi lần lâu tới mấy tháng… Hết thảy mọi thứ thế gian dường như không động được tới cô, khi ấy điều duy nhất cô mong muốn chỉ là đem pháp trong tâm cô truyền cho thật nhiều người. Bất kể cô phải chịu khổ bao nhiêu, chịu ủy khuất bao nhiêu, thì cô đắc được bấy nhiêu! Cô đã ở lại đó trong khoảng 20 năm.

Sau đó, một tiếng sét vang lên đánh vỡ tan căn nhà đá, cô lại thấy ánh mặt trời.

Trải qua biết bao ma nạn, cô hun đúc chính niệm, biến khuất nhục thành từ bi và truyền cấp cho thật nhiều người, nhiều người…

Đúng là:

Trải bao ma nạn khổ tu hành,
Giữ vững chân tâm từ bi thành.
Độ thoát chúng sinh khỏi bể khổ,
Thiên nhai phổ độ vượt hành trình!

Lời kết: Kỳ thực vị Thần này đã trải qua rất nhiều điều; cuộc hành trình của cô không chỉ giới hạn trong những gì tôi kể, mong độc giả và các bạn thứ lỗi.

Hy vọng các đệ tử Đại Pháp ngày càng tinh tấn, hy vọng con người thế gian đều có thể thức tỉnh, thiện đãi Phật Pháp, thiện đãi người tu luyện Pháp Luân Công!

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2011/2/2/71326.html

Đường Thái Tông nhân đức gần gũi, yêu dân như con

Đường Thái Tông nhân đức gần gũi, yêu dân như con

—Câu chuyện trị quốc của Đường Thái Tông, minh quân thời thịnh thế

Tác giả: Lý Kiếm

[Chanhkien.org] Theo «Tùy Đường giai thoại», quyển thượng ghi lại, Đường Thái Tông đối với các đại thần trong triều thì vô cùng tôn trọng và gần gũi. Trong những trường hợp không chính thức, đối với danh tướng Lý Tịnh, Ngài thường xưng là “huynh trưởng”; đối với đại thần ngay thẳng Ngụy Trưng, Ngài không dùng “trẫm” mà tự xưng là “Thế Dân”. Khiêm tốn đối với người dưới, tôn trọng đối với hiền tài như Thái Tông, trong lịch sử xưa nay hiếm. Tác giả «Tùy Đường giai thoại» ngợi ca từ tận đáy lòng: “Vì thế lòng người trong thiên hạ được quy về một mối.”

Đường Thái Tông đối với công thần Lý Thế Tích thì càng quan tâm săn sóc. Khi Lý Thế Tích về triều nhậm chức Binh Bộ Thượng Thư, lao lực lâu ngày thành bệnh, trọng bệnh triền miên. Thái Tông tự mình thăm viếng, đốc thúc Thái y nghiêm túc chữa trị, thậm chí còn hỏi cả chuyện thang thuốc của Lý Thế Tích. Thái y bẩm báo với Thái Tông rằng: “Bệnh đã nhiều năm, phong hàn ứ tích, thần có một phương thuốc, các vị khác đều có đủ, chỉ thiếu mỗi vị ‘tu khôi’”. Thái Tông vội hỏi: “Tu khôi là thuốc gì, làm sao kiếm được?” Thái y giải thích: “Tu khôi chính là râu đốt thành tro mà ra.” Thái Tông nghe xong nói luôn: “Thuốc ấy ta có”. Lập tức lệnh người mang kéo đến, tự mình cắt râu, thiêu thành tro rồi lại đích thân đem tro râu điều chế thành thuốc, giúp Thế Tích uống thuốc. Sau khi uống thuốc, bệnh tình của Lý Thế Tích chuyển biến mau chóng, chẳng mấy chốc mà khỏi bệnh. Thế Tích bị sự việc Thái Tông cắt râu làm cảm động đến nỗi “khấu đầu chảy máu, khóc lóc tạ ơn”. Đường Thái Tông tự mình đỡ Lý Thế Tích dậy, điềm đạm nói: “Trẫm dựa vào khanh mà được an xã tắc, khanh an thì xã tắc cũng an; Trẫm pha râu để khanh trị bệnh, cũng là vì tính cho xã tắc, chứ đâu phải chỉ nghĩ cho một mình khanh, cớ sao phải tạ ơn?” Mạnh Tử viết: “Quân vương coi bề tôi như anh em, bề tôi coi Quân vương như tim gan.” Quả đúng như vậy.

Còn có một lần, Đường Thái Tông mời Lý Thế Tích vào cung dự yến; Thế Tích thoải mái chè chén, uống đến say mèm, trong tiệc ngủ ngon không tỉnh. Thái Tông lo lắng không yên, sợ ông bị cảm, bèn tự mình cởi trường bào, nhẹ nhàng khoác lên mình Lý Thế Tích. Những người có mặt tại đó, không ai không cảm động muôn phần trước đức nhân từ quý trọng của Thái Tông đối với công thần.

Tháng 5 năm Trinh Quán thứ 19, Đường Thái Tông dẫn quân tiến đánh Cao Ly (Triều Tiên ngày nay); khi tấn công thành Bạch Nham, đại tướng quân Lý Tư Ma hộ vệ bên phải chẳng may bị mũi tên bắn trúng, máu chảy như nước, vết thương rất nặng. Thái Tông tự mình rút mũi tên ra, lại dùng miệng hút sạch máu đen trên vết thương cho Lý Tư Ma, buộc vết thương lại cẩn thận rồi sai người hộ tống về doanh trại. Quân lính chứng kiến cảnh này, thì sĩ khí khởi sắc hẳn lên. Cho dù là binh sĩ phổ thông, bị thương hay bị bệnh thì cũng như nhau, đều được quan tâm chăm sóc. Có một binh sĩ nọ bị bệnh, không thể theo tiến quân; Đường Thái Tông bèn thân chinh tới trước giường bệnh thăm hỏi, lại đem anh ta giao cho quan phủ đương địa để thay nhau điều trị. Sau khi chiến tranh kết thúc, Thái Tông lệnh người đem các di cốt tướng sĩ tử trận thu thập lại, an táng ổn thỏa, sau đó tự mình tới tế, khóc lóc thất thanh, biểu thị nỗi thương tiếc và tưởng nhớ. Các tướng sĩ sau khi trở về quê, đem tình cảnh này kể lại cho phụ mẫu những người tử trận, khiến họ rất đỗi cảm động, nói từ tận đáy lòng: “Chúng tôi bị mất con, thật muôn phần bi thống, thế nhưng Hoàng Đế đã tự thân vì họ mà khóc tế; dưới chín suối họ đã có thể nhắm mắt, chết cũng không có gì ân hận.”

Bởi vì Thái Tông quan tâm chăm sóc bề tôi, yêu dân như con, nên thần dân đương nhiên tận sức trung thành, liều mình báo ân. Vua tôi một lòng, thành tựu nghiệp lớn Đại Đường, tất cả đều nhờ vào Thánh ân hạo đãng của Thái Tông vậy!

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2005/8/19/33477.html

13 tháng 7 2011

Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn

Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn

Tác giả: Đồng Tâm

[Chanhkien.org]

Đế nghiệp khai quốc phụ đại Minh,
Mang mang thế sự khí vô bằng.
Phúc chung cái oản tri thần toán,
Hạ giới lâm phàm cứu vũ băng.
Đạo phá vị lai Phật Chủ độ,
Thần thông hậu thế Pháp thuyền đăng.
Linh Sơn liệt hỏa kiếp vưu tại,
Chính quả năng tu hạc liễn thừa.

Tạm dịch:

Khai sáng Đế nghiệp dựng đại Minh,
Dự đoán thế sự mấy ai bằng.
Vang danh thiên hạ phục thần toán,
Hạ giới lâm phàm cứu chúng sinh.
Tiên tri vị lai Phật Chủ hạ,
Thần thông hậu thế Pháp thuyền đăng.
Ngọn lửa Linh Sơn vượt kiếp nạn,
Tu thành chính quả cưỡi hạc thăng.

Ghi chú của người dịch:

Linh Sơn: danh từ trong Phật giáo, dùng để chỉ một ngọn núi lớn trong vũ trụ, là nơi mà chư Phật, Đạo, Thần tụ hội. «Thiêu Bính Ca»: dự ngôn nổi tiếng của Lưu Bá Ôn triều Minh (xem thêm).

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/11/20/69795.html

Các nhà khoa học Stanford tin rằng tha thứ có thể cải thiện sức khỏe

Các nhà khoa học Stanford tin rằng tha thứ có thể cải thiện sức khỏe

Tác giả: Đồng Vân

[Chanhkien.org] Các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Stanford tin rằng tha thứ có thể cải thiện sức khỏe, và họ đang tìm kiếm 70 phụ nữ vùng Bay Area để giúp chứng minh điều đó. Đặc biệt, họ đang kiếm thêm các phụ nữ tiền mãn kinh, ít nhất 18 tuổi, cảm thấy stress và đôi khi “kiệt sức”, cũng như những người cần tha thứ ai đó nhằm loại bỏ một vấn đề. Các nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu xem liệu các phụ nữ tức giận với người khác này có thể học cách giảm stress gây ra bởi sự tức giận hay không, đồng thời cải thiện sức khỏe của họ bằng cách tha thứ cho người khác, những người đối xử không tốt với họ.

“Khi chúng ta đặc biệt tức giận về một sự việc trong một thời gian dài, thường thì cái giá phải trả về mặt tâm lý là stress, hận thù, những mối quan hệ căng thẳng, v.v.”, theo lời Samuel D. Standard, một nghiên cứu sinh ngành giáo dục. “Nhưng cũng có một cái giá về mặt thể chất. Khi chúng ta đặc biệt khích động, cơ thể chúng ta sinh ra cortisol, một hoóc-môn có thể giúp chúng ta lấy lại sức khỏe và sức mạnh tạm thời để chống chọi một mối đe dọa. Tuy nhiên, một mức cortisol cao trong một thời gian kéo dài lại dẫn tới một vài bệnh tật, bao gồm tiểu đường, tăng huyết áp và ung thư”, ông nói thêm. Mục đích nghiên cứu là để kiểm nghiệm một phương pháp được phát triển bởi nhóm Stanford nhằm loại bỏ giận dữ và trải nghiệm sự tha thứ thật sự, về mặt tâm và sinh lý.

Dự án được đứng đầu bởi Carl Thoresen, Tiến sĩ, Giáo sư danh dự của ngành giáo dục và khoa tâm lý học hành vi.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2003/2/9/20379.html
http://pureinsight.org/node/1456

Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung

Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung

Tác giả: Đồng Tâm

[Chanhkien.org]

Tài đức lược dữ Khổng Minh đồng,
Vạn cổ «Mai Hoa» tự giải mộng.
Vận hóa Âm Dương khuy Dịch lý,
Thông đạt trí lự ấp Nho tông.
Kim tích Thánh giả trừ mê vụ,
Vãng cổ hiền nhân cảnh thế chung.
Tửu tỉnh gia hương vô đế sự,
Duy tác «Thiết Bản» thứ hồng mông.

Tạm dịch:

Tài đức thao lược tựa Khổng Minh,
Nổi tiếng «Mai Hoa» được tôn vinh.
Biến hóa Âm Dương theo Dịch lý,
Trí tuệ Nho học thật tinh minh.
Xưa nay Thánh giả trừ mê vụ,
Vạn cổ hiền nhân cứu chúng sinh.
Tỉnh rượu về nhà như vô sự,
Duy có «Thiết Bản» hiển anh linh.

Ghi chú:

«Mai Hoa»: chỉ «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung tiên sinh triều Tống (xem thêm). «Thiết Bản»: chỉ «Thiết Bản thần toán» của Thiệu Ung tiên sinh. Dịch lý: lý biến hóa trong «Kinh Dịch». Mê vụ: sương mù dày đặc che lấp trí tuệ.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/11/18/69743.html

11 tháng 7 2011

Câu chuyện có thật về luân hồi: Thuật phân thân

Câu chuyện có thật về luân hồi: Thuật phân thân

Tác giả: Khải Hàng

[Chanhkien.org] Hơn 200 năm trước, tại một tầng thứ nhất định trong Tam giới, tôi đang đợi để được an bài chuyển sinh.

Vị Thần phụ trách chuyển sinh (gọi là Chuyển Sinh Thần quân) nói với tôi: “Lần chuyển sinh này của con, cần dụng bút để lưu lại văn hóa cho nhân loại, đặt định cơ sở cho chứng thực Pháp sau này của con khi Đại Pháp hồng truyền. Lần này, con phải đồng thời chuyển sinh thành hai cá nhân, đến hai quốc gia khác nhau, dùng ngòi bút để hoàn thành sứ mệnh.” Tôi nghe xong kinh ngạc, nghĩ: vì sao phải chuyển sinh thành hai cá nhân? Thần biết được suy nghĩ của tôi bèn mỉm cười, nói: “Thần lực không gì là không thể”. Nói rồi dẫn tôi tới một đại điện nguy nga lộng lẫy; nhìn từ xa xa, tôi thấy trên đó đề ba chữ lớn—”Phân thần điện”.

Sau khi bước vào trong điện, một vị Thần tướng mạo lạ lùng xuất hiện trước mặt chúng tôi; vị Thần này đầu tỏa hào quang, hai bên đầu gồ ra, ở giữa là một chỗ lõm; hào quang trên đỉnh đầu rất nhanh biến thành các màu sắc: đỏ, cam, vàng, lục, lam, tím, không ngừng biến đổi như vậy. Thuận theo hào quang trên đầu mà các màu này không ngừng biến đổi; chỗ lồi trên đầu Thần cũng không ngừng biến hóa từ một đến bảy. Chuyển Sinh Thần quân nói với vị Thần này: “Phân Thần Sứ quân, anh ta đến rồi, xin hãy phân anh ta làm hai.” Chuyển Sinh Thần quân nói tiếp về một số việc cụ thể. Sau đó, Phân Thần Sứ quân đưa tôi đến một thiên điện. Thiên điện này bố trí kỳ lạ, trên nóc nhà là rất nhiều vật trong suốt với các loại hình dạng, giống như những nội tạng cơ thể người. Phân Thần Sứ quân để tôi đứng tại một vị trí, lúc ấy hào quang trên đầu Thần không còn biến hóa nữa, chỗ lồi trên đỉnh đầu cũng cố định là hai cái, không biến hóa nữa. Miệng Phân Thần Sứ quân lẩm nhẩm mấy từ; tôi cảm giác mình bị một vật trong suốt trụ cứng lại, thân thể mềm nhũn, lại nghe thấy Phân Thần Sứ quân nói lớn: “Phân”. Khi ấy tôi cảm thấy toàn bộ thân người mình nứt ra, ban đầu là hơi đau, sau rất đau đớn, cuối cùng nhẹ nhõm. Lại nghe thấy một tiếng “Khởi”, sự trói buộc của thân thể tan biến, rồi một “tôi” khác xuất hiện. Hai “tôi” này tướng mạo giống nhau, tư tưởng hoàn toàn tương đồng, thậm chí lời lẽ cử chỉ, cách động tay động chân cũng giống nhau. Hai “tôi” ngạc nhiên nhìn nhau, không hẹn mà nắm tay nhau, ánh mắt đầy kinh ngạc.

Phân Thần Sứ quân thấy thế cười, nói: “Pháp bảo này của ta có thể dùng tám vạn sáu ngàn lần, hiện tại đã dùng tám vạn bốn ngàn lần; do đó những người được phân thân bởi Pháp khí của ta tất phải có trách nhiệm lớn khi hạ thế; con trước đây đã được ta phân năm mươi lần, nhưng quên hết rồi!” Nói xong cười ầm lên, tiếng cười rất có lực xuyên thấu.

Phân Thần Sứ quân đưa hai “tôi” từ thiên điện đi ra. Chuyển Sinh Thần quân nói với ông “Thật vất vả quá”, sau đó đem hai “tôi” đến “Chuyển sinh điện”. Để hai chúng tôi đợi đằng sau điện, ông tự mình tiến vào căn phòng ghi “Phân thân chuyển sinh”, mau chóng cầm hai cuốn vở ra và nói: “Hai con xem nhanh cuộc đời của mình đi”. Hai cuốn vở bay đến, hai chúng tôi đỡ lấy, rồi bắt đầu xem cuộc đời của từng người. Xem xong, hai chúng tôi đối diện với nhau, thấy rằng hai vai diễn này đều thật khổ. Thần nói: “Khổ là tốt, Thần muốn có khổ mà chịu cũng không được; hai người hạ thế lần này, trách nhiệm trọng đại, nhất định phải hoàn thành sứ mệnh cho tốt. Nguyên thần hai người hoàn thành sứ mệnh xong thì lại hợp nhất, tương lai đến khi Phật Chủ truyền Pháp thì lại dùng ngòi bút chứng thực Pháp, đến lúc thì những ký ức niêm phong sẽ được đả khai”.

Sau khi xem xong kịch bản cuộc đời được an bài, hai chúng tôi bắt đầu biến hóa của từng người, đi theo quỹ đạo sinh mệnh bắt đầu từ trên thiên thượng.

Trong đó một “tôi” được Chuyển Sinh Thần quân đưa tới “Thần bút điện”, tại đây tôi nhìn thấy một Thần bút. Thần bút mặc một bộ y phục rộng, trên y phục là các loại văn tự và phù hiệu; y phục không ngừng biến hóa màu sắc, phù hiệu và văn tự cũng tùy theo màu sắc y phục mà biến hóa theo. Trong trạng thái công năng, tôi nhìn hiểu được những phù hiệu và văn tự này. Kỳ thực những phù hiệu ấy cũng là văn tự, chẳng qua là một loại chữ tượng hình cổ xưa, trông qua cứ tưởng phù hiệu. Những văn tự này là đối ứng với văn tự trên mặt đất, nhưng biểu hiện không giống nhau, thậm chí mỗi chữ viết lại có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau.

Trên đầu Thần bút trang trí những thứ như đầu bút lông, cái mở cái khép; sau lưng Thần bút đeo một ống đựng bút chứa đủ loại bút khác nhau. Bên trong Thần bút điện, đâu đâu cũng đều là bút. Thần bút đưa tôi đến một hộp “Bút phân thân” và lấy ra một chiếc bút đưa cho tôi. Tôi cầm lấy và thấy trên thân bút viết mấy chữ—”Bút chấn động”. Sau đó, Chuyển Sinh Thần quân đưa tôi đằng vân về phía Tây, đến một nơi, và giao tôi cho một thần linh áo trắng (hình tượng Thần Tây phương, sau lưng là đôi cánh dài). Thần linh áo trắng vén mây ra hai bên và chỉ một nơi trên mặt đất, nói: “Con chuyển sinh tại nơi đây”. Tôi nhìn kỹ, chỉ thấy mình chìm xuống dưới chân, hạ xuống dưới mây, chuyển sinh ra đi.

Nơi mà Thần chỉ ấy tên gọi là “Đan Mạch”, “tôi” này sau đó đã trở thành niềm tự hào của Đan Mạch, một cái tên vang dội—Andersen (nhà văn chuyên viết truyện cổ tích cho thiếu nhi).

Còn một “tôi” khác, cùng lúc với “tôi” ở trên, cũng được đưa đến hộp “Bút phân thân” trong Thần bút điện; ở đó tôi thấy hộp “Bút thân tộc”, trong đó có ba cây bút buộc vào nhau với chữ ghi “Bút chị em”. Thần bút lấy từ trong đó một cây bút đưa cho tôi, trên thân bút viết “Bút kiên cường”. Sau khi nhận bút, “tôi” cũng chuyển sinh đi. Còn lại “Bút hoang mang” và “Bút thơ ca” vẫn ở tại nơi ấy.

“Tôi” này chuyển sinh tới Anh quốc, sau đó trở thành một nhà văn lừng danh, chính là tác giả tiểu thuyết “Jane Eyre”—Charlotte Brontë (là chị cả trong 3 chị em nổi tiếng Brontë, tác giả của những tiểu thuyết xếp vào hàng kinh điển của văn học Anh).

Trong lịch sử phân thân chuyển sinh của tôi, lần này còn được tính là đơn giản. Hiện giờ tôi mới biết, lần phân thân chuyển sinh tối đa của tôi chính là vào triều Minh ở Trung Quốc, đồng thời chuyển sinh qua năm nhân vật. Nói ra thì rất phức tạp. Nếu sau này có thời gian, tôi nhất định sẽ kể lại tường tận câu chuyện này cho mọi người.

Có đồng tu trong bài văn từng đề cập đến “Tháp bút Lung linh”, thực ra tất cả bút thần mà chúng ta ngày nay dùng để viết bài chứng thực Pháp đều là Sư phụ giao phó cho. Trong lịch sử, bút thần chứng thực Pháp này không biết đã trải qua bao nhiêu lần luyện rèn của Thần, hoàn thành không biết bao nhiêu sứ mệnh mà Thần giao phó, trong lịch sử đã lưu lại biết bao nhiêu văn hóa phong phú cho nhân loại!

Khi viết bài chứng thực Pháp ngày nay, tôi thấy Sư tôn ban cho tôi một cây bút thần, tên nó là “Bút từ Thần”. Ở không gian khác, nó thể hiện là vàng kim lóng lánh, ngòi bút cũng bằng vàng. Khi viết văn, bút thần trong tay giúp tôi viết lưu loát, đằng sau mỗi chữ đều tỏa ánh hào quang. Trên mỗi đường bút là một bông hoa, mỗi bông hoa có năm cánh, liên tục đổi màu: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím, hữu sắc, vô sắc. Bông hoa chuyển động không ngừng, tỏa sáng rực rỡ. Xin cho phép tôi dùng cụm từ “diệu bút sinh hoa” để mô tả, thực ra còn hơn thế nhiều lần.

Đóa hoa chuyển động không ngừng phát phóng ánh hào quang nhu hòa, dịu mắt. Khi tả đến một đoạn nào đó trào phúng, tôi buồn cười không nhịn được thì bút thần cũng gập người cười theo; tả đến việc khiến người ta than thở thì bút thần cũng than vãn theo. Có lúc, tôi có tâm chấp trước mà tìm không thấy; khi thỉnh bút thần giúp đỡ, bút thần xuất hiện, nhưng không nói gì mà chạy đi rất mau.

Cây bút thần này và tâm tính của tôi là liên thông; trạng thái tốt, nhân tâm ít, tâm tư thuần chính thì khi viết văn, bút thần như ý, hạ bút thành văn, quỷ chấn thần kinh; bút thần cũng không ngừng phát sinh biến hóa, màu sắc ngày càng thuần chính và trong suốt.

Giờ đây, với bút thần trong tay, nếu như chúng ta không thể hoàn thành sứ mệnh trợ Sư Chính Pháp, phụ lòng kỳ vọng của Sư tôn, thì toàn bộ con đường gian nan dài đằng đẵng trong lịch sử của chúng ta chẳng phải thật uổng công hay sao?

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2011/7/5/75710.html

Vườn thơ Chánh Kiến: Đọc «Phong Thần diễn nghĩa»

Vườn thơ Chánh Kiến: Đọc «Phong Thần diễn nghĩa»

Tác giả: Tâm Vũ

[Chanhkien.org]

Thiên ý

Thiên ý diễn vi phong Thần bảng,
Hưng Chu diệt Thương phục thái bình.
Nhân gian vạn sự giai thiên định,
Thuận thiên ứng nhân trí giả hành.

Khương Tử Nha

Tử Nha phụng mệnh hạ Côn Lôn,
Tế thế phù nhược hành Đại Đạo.
Nhất triều binh nhập Triều Ca thành,
Điếu dân phạt tội diệt ác bạo.
Khai tích Chu nghiệp bát bách niên,
Doanh đắc Thánh danh thanh sử diệu.
Thùy vân chính trị bất năng cảo,
Đảng nô tư duy thật khả tiếu.
Thiên hạ thủy thâm hỏa nhiệt trung,
Yêu nghiệt hoành hành sài lang khiêu.
Bạo chính tàn dân thiên bất dung,
Trường kiếm tại thủ tru vô Đạo.
Kiến tử bất cứu uổng tố nhân,
Đạo tâm khởi vi công danh nhiễu.
Chính tà tòng lai bất lưỡng lập,
Chỉ thán ngu giả bị tẩy não.

Triệu Công Minh

Nhất niệm chi soa trợ ác Trụ,
Chỉ vi tư tình bối thương thiên.
Tự thị tiểu thuật sính hung chí,
Uổng tống tính mệnh chỉ kham linh.

Chu Văn vương

Văn vương đại đức phối thiên địa,
Nhân tâm quảng bố tế thương sinh.
Thiện hóa vạn dân quy chính Đạo,
Dã vô di hiền quốc vận hưng.

Trụ vương

Bản thị anh minh hữu vi quân,
Tình sắc mê tâm trụy vô minh.
Lưu hạ mạ danh cảnh hậu thế,
Mạc yếu trợ Trụ hủy tiền trình.

Tô Đát Kỷ

Dưỡng tại thâm khuê hữu giai dung,
Nhất triều hồn tiêu khứ vô tung.
Yêu nghiệt tá thể loạn quốc chính,
Bối phụ ác danh đa khổ trung.

Thân Công Báo

Đố tâm như hỏa sử nhân cuồng,
Tu Đạo bất thuần nan thành cương.
Đông Thổ thử quân đa đồng hảo,
Hại nhân hại kỷ chung không mang.

Văn Thái sư

Uổng cố đại nghĩa tuần tiểu tiết,
Trung vu bạo chính tự chiêu vong.
Nghịch thiên nhi động Thần quỷ nộ,
Hậu nhân bất giám thật kham thương.

Phí Trọng, Vưu Hồn

Tự cổ nịnh thần tối kham linh,
Thượng thoán hạ khiêu vị hữu nhàn.
Đắc thế hại nhân tà vô bỉ,
Nghiệp tích như sơn vạn thế hoàn.

Cửu vĩ hồ

Phụ thể nhân thân họa Thần Châu,
Đa thiểu trung lương nhất mệnh hưu.
Tác ác nan đào thiên lý trừng,
Trảm yêu đài thượng đẳng đoạn đầu.

Tạm dịch:

Thiên ý

Thiên ý diễn làm bảng phong Thần,
Hưng Chu diệt Thương mới thái bình.
Vạn sự nhân gian do thiên định,
Thay Trời hành Đạo trí giả hành.

Khương Tử Nha

Tử Nha phụng mệnh xuống núi cao,
Tế thế cứu nhân hành Đại Đạo.
Đánh dẹp Triều Ca theo Thiên ý,
Cứu giúp dân lành diệt ác bạo.
Tám trăm năm ấy xây nền móng,
Lập được Thánh danh sáng biết bao.
Ai nói không được làm chính trị,
Tư duy của đảng nực cười sao.
Khổ cực lầm than thiên hạ đợi,
Yêu quái hoành hành lang sói vào.
Bạo chính giết dân Trời phẫn nộ,
Trường kiếm trong tay diệt vô đạo.
Thấy người sắp chết sao không cứu,
Công danh chẳng màng khởi tâm Đạo.
Chính tà hai phía sao phân biệt,
Thương thay những người bị tẩy não.

Triệu Công Minh

Trợ Trụ vi ngược sai một niệm,
Chỉ vì tư tình không phân biện,
Cậy có tiểu thuật thật hung hăng,
Thất trận xong rồi phí tính mệnh.

Chu Văn vương

Văn Vương đại đức thiên địa minh,
Nhân ái rải khắp cứu thương sinh.
Thiện hóa muôn dân quy chính Đạo,
Lưu lại đức hiền vận nước hưng.

Trụ vương

Vốn là vị Vua khá anh minh,
Tình sắc mê đắm lạc vô minh.
Lưu lại tiếng xấu cho hậu thế,
Chớ có trợ Trụ hủy công danh.

Tô Đát Kỷ

Nương tại phòng khuê có dung nhan,
Hồn kia tiêu mất sạch dấu chân.
Yêu ma phụ thể loạn việc nước,
Nhận phải ác danh chịu khổ tâm.

Thân Công Báo

Tật đố như lửa thói bốc đồng,
Tu Đạo lạc đường khó thành công.
Vua cõi Đông Thổ cùng sở thích,
Hại mình hại người cũng thành không.

Văn Thái sư

Bỏ cả đại nghĩa thật uổng công,
Trung thành bạo chính tự diệt vong.
Nghịch thiên nghịch địa Thần quỷ nộ,
Đời sau không xét thấy thảm thương.

Phí Trọng, Vưu Hồn

Nịnh thần xưa nay vốn tham lam,
Cúi trên luồn dưới đâu có nhàn.
Được thế hại người tà không kể,
Nghiệp chất như núi sao bồi hoàn.

Cáo chín đuôi

Phụ thể thân người họa Thần Châu,
Trung lương mất mạng biết bao nhiêu.
Hành ác khó thoát Thiên lý phạt,
Trên đài trảm yêu chịu chặt đầu.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/12/27/70572.html

08 tháng 7 2011

Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Các Thế Kỷ» của Nostradamus

Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Các Thế Kỷ» của Nostradamus

Tác giả: Đồng Tâm

[Chanhkien.org]

Tán Nặc Tra Đan Mã Tư «Chư Thế Kỷ»

Tiên tri tiên giác trứ kỳ thư,
Đại trí đại huệ nhất dự ngôn.
Thiên niên lưu chuyển tại trần thế,
Vạn sự ứng nghiệm kinh nhân gian.
Pháp quốc cách mệnh như kỳ diễn,
Nhất chiến nhị chiến ngao chiến hoan.
Mã Nhĩ Tư truyền vô thần luận,
Lục Tứ huyết nhiễm cửu châu oan.
Thế sự luân hồi linh như thị,
Bất thắng mai cử tại nhãn tiền.
Nhất cửu cửu cửu chú đại thác,
Khủng bố Đại vương hàng nhân gian.
Phỉ báng Phật Pháp tội vô xá,
Trọc lãng phiên thiên vũ trụ yên.
Hủy diệt nhân loại hại Chủ Phật,
Nhân gian thê mê mạn độc yên.
Dao ngôn phỉ báng thế nhân mộng,
Phô thiên cái địa tận hoang ngôn.
Trảo bộ tín chúng sính thiết huyết,
Tứ vô kỵ đạn tiễn nhân quyền.
Hồng sắc khủng bố mạn hoàn vũ,
Tà ác khắc độc ám vô thiên.
Chúng sinh tội nghiệp như thử đại,
Chủ Phật cứu chúng nhất thân đam.
Ác nhân bại hoại chúng Thần khí,
Trọng trọng nguy cơ nhân loại gian.
Đại nan lâm đầu lộ hà tại,
Ác đảng y cựu tát hoang ngôn.
Phân phân nhương nhương linh quang hiện,
Thiên tai nhân họa cảnh nhân hoàn.
Hồi đầu tái khán «Chư Thế Kỷ»,
Đại Pháp cứu độ tảo dự ngôn.
Hoán tỉnh trần mộng thần công hiện,
Pháp đồ chân tướng xứ xứ truyền.
Kỳ thư lũ lũ hiển linh nghiệm,
Nhân loại ứng giác Thần Phật liên.
Tân thiên tân địa tân vũ trụ,
Khí tượng vạn thiên tân khôn càn.
Kiên thủ lương tâm chính tà biện,
Trọc thế thanh lưu quá kiếp quan.
Hồng trần hôn hôn vạn sự loạn,
Thối xuất tà đảng vô ưu phiền.

Tạm dịch:

Ngợi ca «Các Thế Kỷ» của Nostradamus

Giác ngộ tiên tri cuốn kỳ thư,
Đại trí đại huệ bộ dự ngôn.
Ngàn năm lưu chuyển tại trần thế,
Vạn sự ứng nghiệm kinh nhân gian.
Đại cách mạng Pháp y lời đoán,
Hai cuộc thế chiến cũng mở màn.
Mars thừa cơ truyền vô thần luận,
Thảm sát Lục Tứ cửu châu oan.
Thế sự luân hồi sao linh nghiệm,
Biết bao sự việc tại nhãn tiền.
Năm chín mươi chín thành đại thác,
Đại vương Khủng bố xuống thế gian.
Phỉ báng Phật Pháp tội khó chuộc,
Sóng đục cuồn cuộn vũ trụ mang.
Hủy diệt nhân loại hại Chủ Phật,
Cõi người ảm đạm độc tràn lan.
Phỉ báng lừa dối người trong mộng,
Rợp trời dậy đất nổi hoang ngôn.
Lôi kéo người theo khoe ý chí,
Không còn kiêng nể phạm nhân quyền.
Hồng sắc khủng bố trùm vũ trụ,
Tà ác khắc nghiệt thêm bạo tàn.
Chúng sinh tội nghiệp sao trả hết,
Phật Chủ gánh hết chỉ một thân.
Kẻ ác bại hoại chúng Thần hủy,
Nguy cơ chồng chất nhân loại nan.
Đại nạn sắp đến đường đâu nữa,
Ác đảng tiếp tục rải hoang ngôn.
Ấm ầm tới tấp linh quang hiện,
Thiên tai nhân họa cảnh thế nhân.
Quay đầu xem lại «Các Thế Kỷ»,
Đại Pháp cứu độ sớm dự ngôn.
Quét sạch mê mờ thần công hiện,
Chân tướng Đại Pháp xứ xứ truyền.
Kỳ thư bao lần hiển linh nghiệm,
Nhân loại tỉnh giác Thần Phật xem.
Tân thiên tân địa tân vũ trụ,
Cảnh sắc tráng lệ đến thế gian.
Giữ vững lương tâm phân tà chính,
Trời đất sáng trong vượt kiếp nan.
Cõi trần mờ ảo vạn sự loạn,
Thoát xuất tà đảng sạch ưu phiền.

Ghi chú của người dịch:

Kỳ thư: cuốn sách thần kỳ. Lục Tứ (4/6): chỉ cuộc thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn diễn ra ngày 4/6/1989. Cửu châu: chín châu, chỉ Trung Quốc nói chung; người Trung Quốc cho rằng sau khi Đại Vũ trị thủy thành công đã chia Trung Quốc ra làm chín châu.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/12/14/70268.html

Vườn thơ Chánh Kiến: Sư ân—«Thần Vận» quan cảm—Thánh ân

Vườn thơ Chánh Kiến: Sư ân—«Thần Vận» quan cảm—Thánh ân

Tác giả: Pháp Vinh, Lý Ngộ, Vân Thư

[Chanhkien.org]

Sư ân

Tác giả: Pháp Vinh

Thịnh Đường thiên triều dập cổ kim,
Thiên cổ nhất đế tái sang tân.
Vi liễu hồng nguyện truyền Đại Đạo,
Hoa giáp thánh đản lục thập Xuân.
Lao tâm thiên thượng khai tân vũ,
Thao tận nhân gian pháp đồ tâm.
Pháp quang phổ chiếu thần lộ sướng,
Phật ân hạo đãng khai thiên môn.

Tạm dịch:

Sư ân

Thịnh thế thiên triều chói cổ kim,
Hoàng đế ngàn xưa lại canh tân.
Hoàn thành hồng nguyện truyền Đại Đạo,
Kỷ niệm sinh nhật lục thập Xuân.
Ưu tư nỗi khổ khai tân vũ,
Vạn sự nhân gian phải bận tâm.
Pháp quang phổ chiếu đường thông suốt,
Phật ân hạo đãng khai thiên môn.

* * *

2011 niên «Thần Vận» quan cảm

Tác giả: Lý Ngộ

Thính tòng Chủ Phật hoán,
Nguyện tố thiên niên vương!
Nghị nhiên mạo thiên đảm,
Tùy Sư hạ khung thương.
Luân hồi thiên bàn khổ,
Nhân gian mê đồ trường.
Kim thế đắc Đại Pháp,
Sư ân vạn cổ dương.

Tạm dịch:

Cảm tưởng «Thần Vận» năm 2011

Nghe tiếng Phật Chủ gọi,
Nguyện làm thiên niên vương!
Liều lĩnh dám đi xuống,
Theo Thầy đến thế gian.
Luân hồi chịu bao khổ,
Cõi người tưởng lạc đường.
Hôm nay đắc Đại Pháp,
Ơn Thầy vạn cổ truyền.

* * *

Thánh ân

Tác giả: Vân Thư

Thương vũ Đại Đạo Chân Thiện Nhẫn,
Thần truyền văn hóa tố phô trần.
Trọc thế hồng truyền bách đa quốc,
Ân trạch ngũ châu hàng cam lâm.
Văn giả tầm chi đắc giả hỉ,
Tu tâm khứ chấp kim cương thân.
Hàng yêu trừ ma yên vân quá,
Ức vạn liên mai mãn càn khôn.

Tạm dịch:

Thánh ân

Chân-Thiện-Nhẫn ấy chân Đại Đạo,
Văn hóa Thần truyền tự thuở nào.
Cõi trần hồng truyền hơn trăm nước,
Năm châu hạn hán gặp mưa rào.
Người nghe người được ai cũng thích,
Tu tâm khứ chấp mừng biết bao.
Hàng yêu trừ ma mây khói hết,
Sen mai mơn mởn khắp trời cao.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2011/3/8/72536.html

04 tháng 7 2011

Thần Vận đến rồi

Tác giả: Dung Tâm

[Chanhkien.org]

Đức Phật Chủ đang ở cõi người. Với lòng từ bi vô bờ bến, Ngài quét sạch mây mờ, khai sáng vũ trụ mới, và mở đầu truyền thuyết nơi nhân loại.

Đoàn Nghệ thuật Thần Vận là một kỳ tích!

Trong năm đầu tiên, chỉ có một đoàn; trong năm thứ hai, đã có hai đoàn; trong năm thứ ba, đã có ba đoàn. Thật nhiều nghệ sĩ tài năng đã tụ hội ở đây, một dàn nhạc chưa từng có kết hợp giữa Đông và Tây, một phông nền sân khấu đệ nhất thế giới. Thử hỏi từ trước tới nay đã có ai đạt được điều này?

Khung cảnh Thần Vận mang đến sân khấu giống như Thiên Đàng tái hiện nơi cõi người.

Sự huy hoàng của Thần Vận, ai ai cũng tán tụng; nhưng không ai hiểu hết nội hàm của nó… Tại sao?

Đệ tử Đại Pháp, chúng ta biết! Chúng ta biết đó là vì “Sư phụ”! Chính Sư phụ đang đích thân cứu độ chúng sinh; chính Sư phụ đang ban cho chúng ta cơ hội hoàn thành thệ ước!

Chúng ta không làm tốt, Sư phụ tha thứ cho chúng ta. Chúng ta tổn thất những gì, Sư phụ bù đắp cho chúng ta. Con đường chúng ta đi không thuận, Sư phụ để chúng ta thử lại lần nữa. Vậy còn những chúng sinh đã chờ đợi từ lâu thì sao?

“Thần Vận đến rồi!”

“Tôi chỉ muốn nói với bạn rằng đây là tin tốt lành nhất thế giới!”

Khi tôi phát xuất niệm này, bầu trời trong sáng, mây đẹp tung bay.

Bước đi trên phố như thể đang chào đón, mọi người vui mừng phấn khởi; họ muốn đi ra ngoài để nói lớn rằng… “Thần Vận đến rồi!”

Họ cấp cho tôi “vinh diệu” này… bởi vì chúng sinh đang chờ đợi trong hy vọng. Đây là sự gia trì của Sư tôn! Ngước nhìn Sư tôn, tôi quá đỗi cảm động… Tất cả chúng sinh đang chờ đợi, “đừng bỏ quên tôi.” Cả thế giới đang trông ngóng một “ngôi nhà đầy ắp”. Chỉ có đệ tử Đại Pháp mới xứng đem tin này đến cho họ!!!

Nước mắt tuôn rơi, tôi muốn hét lên từ tận đáy lòng, “Thần Vận đến rồi!”

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2011/4/1/73211.html
http://pureinsight.org/node/6137

Thi từ khúc: Tu luyện ngẫu đắc

Thi từ khúc: Tu luyện ngẫu đắc

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[Chanhkien.org]

Tu luyện ngẫu đắc

Chúng sinh bất ngộ cầu quảng hạ,
Pháp Luân chỉ lộ ngã hữu gia;
Tự huyền phi huyền tâm tiệm minh,
Nhược hữu nhược vô khí tự hoa.

Tạm dịch:

Tu luyện ngẫu đắc

Chúng sinh bất tỉnh cầu cao sang,
Pháp Luân chỉ lối ta chẳng màng;
Tựa như huyễn hoặc tâm dần sáng,
Mây mờ tan hết khí tự quang.

(Lấy từ Minh Huệ Net)

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2001/4/15/9668.html

Thi từ khúc: Du tử quy

Thi từ khúc: Du tử quy

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[Chanhkien.org]

Du tử quy

Bất cảm diện Sư lệ,
Thích thích toan tâm phế;
Thụ tử vạn thiên nan,
Mạt liễu tử bất quy.

Diễn nghĩa:

Lãng tử trở về

Không dám nhìn gương mặt Sư phụ rơi lệ,
Bao ưu tư chua xót trào dâng trong lồng ngực;
Lãng tử này đã phải chịu đựng muôn vàn gian khó,
Đến lúc cuối cùng chẳng lẽ không quay trở về.

Tạm dịch:

Trở về nhà

Không dám nhìn Thầy nước mắt rơi,
Ưu tư chua xót đã bao đời;
Xa nhà chịu khổ bao nhiêu nạn,
Chẳng lẽ lưu luyến mãi không rời.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2001/4/28/9970.html