23 tháng 4 2011

Hội họa Trung Quốc: “Thiên thần”

Hội họa Trung Quốc: “Thiên thần”

Tác giả: Sử Đình Bân

[Chanhkien.org]

Tác giả là người chưa từng trải qua quá trình đào tạo chuyên nghiệp về mỹ thuật, sáng tác hoàn toàn dựa trên linh cảm đến từ Đại Pháp và ký tức tiên thiên. Năm 2003, tác giả đã sáng tác bức tranh này để chúc mừng sinh nhật Sư phụ trong ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2003/5/28/21540.html
http://pureinsight.org/node/1707

Hội họa Trung Quốc: “Phi thiên”

Hội họa Trung Quốc: “Phi thiên”
Tác giả: Chương Thúy Anh

[Chanhkien.org]

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2003/4/1/21018.html
http://pureinsight.org/node/1562

Hội họa Trung Quốc: “Nữ thần Văn Hóa”

Hội họa Trung Quốc: “Nữ thần Văn Hóa”

[Chanhkien.org]

Dịch từ:

http://pureinsight.org/node/1753

22 tháng 4 2011

Phiên bản mới của ‘Alice ở xứ sở thần tiên’

Phiên bản mới của ‘Alice ở xứ sở thần tiên’

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp, Tử Đích

[Chanhkien.org] Alice, một học sinh của tôi, là một cô bé xinh xắn và ít nói. Tên tiếng Trung của cô bé là “Mộng Viên”. Chúng tôi đã quen biết nhau từ ba năm trước. Lúc đó, tôi nói với cô bé: “Alice là một cô bé hay mơ mộng. Đó là tại sao tôi đặt tên tiếng Anh cho em là Alice.”

Một ngày nọ, vào đầu học kỳ mùa Xuân năm ngoái, Alice nói với tôi: “Em đã có một giấc mơ dài vào đêm hôm qua và em muốn kể nó với cô. Cô có thể lắng nghe em chứ?” Tôi cười với cô bé và gật đầu. Alice tiếp tục: “Em đã mơ giấc mơ này nhiều lần và nó rất rõ ràng, như là điều chân thực vậy. Em chưa từng có trải nghiệm này trước đây.” Rồi cô bé kể với tôi về giấc mơ trong khoảng nửa tiếng. Tôi kinh ngạc sau khi nghe xong và bảo cô bé nên chia sẻ về giấc mơ cho cả lớp vào ngày hôm sau. Sau đó, tôi viết ra câu chuyện này:

(1) Thế giới thiên quốc của Thần

Em đang ngồi trên một đám mây và đám mây mềm mượt tựa như nhung vậy. Rồi em thấy cô giáo em trong bộ váy màu trắng, với tóc xoăn màu vàng, còn đẹp hơn cả cô bây giờ nữa. Sau đó, em thấy thầy giáo dạy ngữ văn của chúng em (cũng là một đệ tử Đại Pháp trẻ tuổi). Rồi một cánh cửa pha lê trong suốt hiện ra, trên đó có một nắm cửa bằng vàng. Thầy giáo dạy ngoại giữ đẩy nắm cửa và nó mở ra. Bên trong có rất nhiều vị Thần, đều mặc áo choàng dài màu trắng và ngồi trên các đài sen khổng lồ. Rồi ba vị Thần lớn tới. Một trong số họ chỉ ra đằng xa, nơi có chiếc thang rất dài dẫn lên trời. Đi theo vị Thần to lớn, chúng em bước lên chiếc thang và ở cuối chiếc thang có một cánh cửa. Trên cánh cửa, có ba vị chữ màu vàng kim tỏa sáng: “Chân-Thiện-Nhẫn”. Chúng em bay vào trong và thấy rằng ở đó rất rộng lớn và mỹ diệu. Em gọi nó là “thế giới thiên quốc”. Có nhiều cung điện và mỗi cung điện đều to lớn như trái đất. Em có thể thấy mái của cung điện, nhưng không thể lên đó dù em bay cao bao nhiêu. Trên những cây cột của cung điện có khắc những hình tượng của Thần, mà đối với chúng em, còn quý giá hơn cả châu báu nữa. Trên thế giới thiên quốc, có những khu vườn rất rộng lớn và tươi đẹp với những bông hoa mềm mại và sặc sỡ. Ở đó, ngay cả ong mật và những dòng suối cũng có thể nói chuyện. Thế giới thiên quốc là đẹp đẽ khôn tả và có một mùi hương mà không thể tìm thấy ở thế giới con người. Điều thú vị là không có mặt trời ở không gian đó; mà thay vào đó, mọi vật tự tỏa sáng. Ánh sáng là em dịu chứ không phải lóa mắt. Ngạc nhiên hơn nữa, tất cả học sinh trong lớp của cô giáo – bao gồm một số bạn mà em không quen – đều ở đây và chúng em sống cùng nhau như một gia đình. Chúng em đều rất trẻ, như thiếu niên, và rất xinh đẹp. Thêm vào đó, tính cách và nội tâm chúng em đều đồng hóa với nguyên lý “Chân-Thiện-Nhẫn”. Chúng em chung sống với nhau vô cùng hòa thuận.

(2) Khảo nghiệm đối với các vị Thần

Chúng em đã sống như vậy trong khoảng 100 triệu năm. Rồi một ngày, một vị Thần vĩ đại tới, hỏi xem chúng em có muốn đề cao tầng thứ hay không. Tất cả chúng em nói có. Vị Thần vĩ đại dẫn chúng em đi qua một cánh cửa pha lê để vào một không gian khác. Chúng em tiếp tục bước đi và thấy một cái hang tối rất lớn. Sau đó, một thảm họa xảy ra và một cơn lốc xoáy cuốn chúng em vào cái hang tối. Chúng em lập tức chạy đi, nhưng chiếc hang đuổi theo chúng em, ngày càng gần hơn. Thầy giáo dạy ngữ văn hái một chiếc lá lớn từ một cái cây ở gần đó rồi ném nó vào cái hang. Đây lá một chiếc lá lớn, to bằng một tòa nhà. Tuy nhiên, cái hang trở nên ngày càng to và nhanh chóng tiến đến gần chân chúng em. Lúc ấy, chúng em kinh ngạc khi thấy rằng cái hang này nối liền với địa ngục và thậm chí chúng em còn thấy những cảnh tượng ghê rợn, như núi gươm và biển lửa. Rồi một hàng kiếm xuất hiện khi cái hang mở ra: “Một trong số các ngươi phải hy sinh để cứu cả nhóm”. Không ngần ngại, thầy giáo dạy ngữ văn của chúng em nhảy vào trong. Nhưng trước khi chúng em kịp biểu đạt sự bi thương, thì cái hang lập tức biến mất. Rồi thầy giáo dạy ngữ văn xuất hiện trở lại trước mặt chúng em, và trông thầy còn uy nghiêm và đẹp đẽ hơn – ngay cả y phục của thầy cũng đẹp hơn nữa. Lúc ấy vị Thần vĩ đại lại xuất hiện. Ngài cười với chúng em và nói: “Các con đã làm rất tốt, đã vượt qua khảo nghiệm rồi.” Lúc ấy chúng em mới biết đây là một khảo nghiệm, do đó chúng em mới cảm thấy an tâm.

Rồi khảo nghiệm thứ hai tới. Chúng em tới một nơi khác, nơi đó có hai nhà lao trên thiên quốc (thiên lao). Adam và Eva đang làm việc cực nhọc trong thiên lao với bộ quần áo rách rưới. Phía trước cánh cửa có hai cái cây: một màu bạc và một màu đen. Có những bức tượng đồng hình người ở cả hai cái cây: người tốt ở cái cây màu bạc và người xấu ở cái cây màu đen. Vị Thần hỏi xem liệu chúng em có muốn giải cứu Adam và Eva không, bởi vì họ đã bị trừng phạt trong một thời gian dài. Chúng em nói có. Ngài bảo chúng em hãy lấy tượng Mao Trạch Đông từ cái cây màu đen và ném vào trong thiên lao. Chúng em làm như điều Ngài nói. Adam và Eva lập tức được ra ngoài, trong khi Mao bắt đầu làm việc cực nhọc ở đó. Vị Thần liền bảo chúng em lấy tất cả những bức tượng ở cái cây màu đen và ném chúng vào thiên lao. Theo cách này, những người xấu sẽ bị trừng phạt.

(3) Sứ mệnh của các vị Thần

Sau đó chúng em bắt đầu một cuộc sống mới và mọi người đều rất hạnh phúc. Một ngày nọ, chúng em được khảo nghiệm bằng một bông sen khổng lồ: ai có một trái tim thiếu từ bi hoặc bị mất đi sự thuần khiết và thiện lương – dù chỉ một chút – sẽ có thể bị rớt vào bông hoa, và giáng xuống thế gian con người để chịu khổ. Không có ai trong chúng em bị rớt xuống, ngoại trừ một cô bé tinh nghịch. Cô bé bị rớt xuống và chuyển sinh thành một bạn trai trong lớp em, cũng rất nghịch ngợm. Bạn ấy đang rất nguy hiểm, và chỉ bằng cách tuân theo “Chân-Thiện-Nhẫn” thì cậu bé mới có thể trở về. Chúng em cũng đã chứng kiến sự chuyển sinh của Chúa Jesus, người xuống thế gian con người không phải bởi sự thiếu thuần khiết, mà là để hoàn thành một sứ mệnh. Sau khi Ngài đi xuống từ bông sen, chúng em lập tức thấy trước mắt xuất hiện một tấm kính thủy tinh trong suốt. Tấm kính này có thể phản chiếu toàn bộ quá trình chuyển sinh nhân gian của Ngài: sinh ra tại máng ngựa, đi các nơi truyền Đạo, và rồi cuối cùng bị đóng đinh trên Thập tự giá. Sau đó, Ngài trở về sau khi đã hoàn thành xong sứ mệnh. Tại nhân gian thì đã mấy thập niên trôi qua, nhưng ở không gian chúng em thì nó chỉ kéo dài vài phút.

Rồi chúng em tới một nơi khác, ở đó có một cuốn sách lớn. Cuốn sách có tượng của mỗi cá nhân bằng không gian ba chiều. Nửa đầu cuốn sách ghi lại những sự việc của người thường, rằng ai lên Thiên đàng và ai xuống địa ngục. Nửa sau cuốn sách ghi lại sứ mệnh của các vị Thần, rằng ai trở về được thiên quốc nếu tu luyện tốt và ai không thể trở về nếu không tu luyện tốt. Em cố gắng ghi nhớ sứ mệnh của một vài vị Thần, nhưng chỉ có thể nhớ được một chút: một số nói với người khác hãy tin vào Thần, một số khuyên người khác phải Nhẫn, một số mang đến hạnh phúc cho mọi người, v.v.

Tất cả những vị Thần có sứ mệnh đều đã hạ xuống thế giới con người. Ký ức của họ bị xóa và Pháp lực của họ cũng tiêu mất.

Năm ngoái, em lại mơ về một phần giấc mơ này. Thật thú vị, khi giấc mơ kết thúc, em nửa mơ nửa tỉnh, và ai đó nói với em: “Trở lại mau mau, trở về thiên thượng”. Âm thanh vang vọng vài lần trước khi biến mất.

Sau khi Alice kể xong câu chuyện này, cả lớp rất im ắng. Không ai nói gì: ngay cả những đứa trẻ tinh nghịch nhất cũng im lặng. Rồi Alice giơ tay lên. Tôi hỏi cô bé định nói gì. Cô bé nói trong nước mắt: “Thưa cô, em cảm thấy rất buồn vì nhiều người tới trái đất với một sứ mệnh, và họ sẽ không thể trở về nếu không hoàn thành sứ mệnh.” “Chừng nào chúng ta còn ghi nhớ những lời quan trọng – ‘Pháp Luân Đại Pháp hảo’, ‘Chân Thiện Nhẫn hảo’ – và tận sức làm theo, chúng ta có thể trở về”, tôi nói và nhìn vào các học sinh với đầy tín tâm và kỳ vọng. Chúng tỏ ra rất trang nghiêm. Rồi một bé trai giơ tay lên và nói: “Thưa cô, em đã thấy một điều thật kỳ diệu. Khi Alice kể về giấc mơ, em đã trông thấy khảo nghiệm mà bạn ấy đề cập. Chúng em đã lấy hết những bức tượng từ cái cây màu đen và ném chúng vào thiên lao. Nhưng vẫn còn lại một bức, em nhìn lại xem, thì thấy đó là Giang Trạch Dân. Em đã hỏi vị Thần rằng em có thể lấy nó đi không, và Ngài nói có. Em cố gắng hết sức, nhưng nó vẫn không suy suyển. Khi em hỏi vị Thần tại sao, thì Ngài nói rằng thời gian vẫn chưa tới.

Các em học sinh trong lớp đều ngạc nhiên trước câu chuyện. Chúng đều lắng nghe một cách chăm chú, như thể cả lớp đang sống trong một không gian khác vậy. Thấy rằng tâm của chúng thật là thuần tịnh, tôi bảo chúng hãy chia sẻ suy nghĩ của mình. Một cậu bé nói: “Đối với em, dường như các vị Thần đã tới lớp học và sống cùng với chúng em.” Tất cả học sinh trong lớp đều nghĩ rằng giấc mơ là một câu chuyện chân thực. Một cậu bé, người vẫn thường ngỗ nghịch, nói với chúng tôi: “Em hy vọng rằng tất cả mọi người có thể nhớ ‘Chân-Thiện-Nhẫn hảo’ để có thể trở về thiên quốc”. Tôi vô cùng xúc động trước lời cậu bé.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2011/3/24/72994.html
http://pureinsight.org/node/6125

Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay

Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay
Tác giả: Sử Giám

[Chanhkien.org] Lời nói đầu:

Nhân loại đến từ đâu và rồi sẽ đi về đâu? Có lẽ dựa vào truyền thuyết và thần thoại của các quốc gia trên thế giới, các cố sự tôn giáo, cũng như lịch sử ghi lại, chúng ta có thể tìm lại được những ký ức bị thất lạc ấy. Thần thoại và truyền thuyết các nước trên thế giới đều có đề cập đến trận đại hồng thủy một cách trùng hợp, khiến người ta vô cùng kinh ngạc. Ví như thổ dân Châu Mỹ có hơn 130 thần thoại về đại hồng thủy. Thần thoại Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Nhật Bản, Australia, Hy Lạp, Ấn Độ, Ai Cập, v.v. cũng đều lưu lại những ký ức về trận đại hồng thủy khủng khiếp ấy. Ở một vùng dưới chân núi Himalaya tại Tây Tạng, người ta đã phát hiện được một bộ lạc; họ là nhân chủng rất giống với người Hy Lạp cổ, do vậy người ta cho rằng họ là những người may mắn còn sót lại sau trận đại hồng thủy.

Năm 1986, thông tấn xã nhà nước của Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố đã phát hiện được một vật thể có dạng con thuyền Noah trên đỉnh núi Ararat ở độ cao 5.200 mét, và từ ảnh chụp trên không trung, người ta thấy đầu con thuyền tròn như củ hành, và chiều dài con thuyền trùng khớp với điều được mô tả trong «Thánh Kinh». Như vậy tại sao nhân loại lại gặp phải đợt tai nạn ấy? Truyền thuyết các nước đều có giải thích thống nhất về vấn đề này, đó chính là vì sự sa đọa của nhân loại; các nhà khảo cổ học Châu Âu cũng đã khai quật được những di tích thời Hy Lạp cổ cho thấy sự sa đọa của nhân loại vào thời ấy. Các vị Thần đã quyết định trừng phạt nhân loại, và thế là sau đó một trận đại hồng thủy nhấn chìm cả địa cầu,…

Hàng ngàn năm đã trôi qua, các sinh mệnh trong vòng luân hồi chuyển thế đều đã quên mất những ký ức xa xưa ấy. Đối với tương lai, họ cũng thấy mù mờ như vậy. Trong lịch sử nhân loại đã xuất hiện nhiều lời tiên tri, và tại các quốc gia cũng lưu lại những đại dự ngôn khác nhau. Ví dụ tác phẩm nổi tiếng «Các Thế Kỷ» của Nostradamus dự đoán chính xác về rất nhiều sự kiện lớn trong lịch sử, chẳng hạn hai trận đại chiến thế giới, chiến tranh vùng Vịnh, Liên Xô giải thể, v.v. Bài thơ «Mai Hoa Thi» thời Bắc Tống tiên tri rất chính xác về sự hoán chuyển của các triều đại Trung Quốc cũng như sự xuất hiện của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Có dự ngôn tiên tri rằng hiện tại là thời kỳ người và Thần cùng tồn tại, lại cũng có dự ngôn tiên đoán về đại kiếp nạn của nhân loại, rằng năm 1999 tại Trung Quốc sẽ có một sự kiện nào đó phát sinh, tuy nhiên “ngày tận thế” năm 1999 đã không còn tồn tại nữa,…

Những thần thoại và dự ngôn này có thể khiến chúng ta có một vài suy ngẫm.

Lời cảnh tỉnh trong lịch sử

Chúng ta đều đã biết cách ghi năm theo Công nguyên bắt đầu từ đâu, ấy là để tưởng niệm năm đầu tiên Chúa Jesus bị đóng đinh trên Thập tự giá, đó là năm đầu tiên sau Công nguyên.

Khi Chúa Jesus bị những người Do Thái phản bội, người La Mã đã đóng đinh Ngài lên Thập tự giá, khi ấy có người qua đường nhìn thấy cười rằng: “Ông nói ông là con của Thượng Đế, mà lại bị đóng lên cây Thập tự rồi hạ xuống à!” “Ông đi cứu độ người khác, chứ không cứu nổi chính ông, hãy để Thượng Đế cứu ông đi, bởi vì ông nói ông là con của Thượng Đế mà.” Lúc ấy, Chúa Jesus cực kỳ đau đớn trên Thập tự giá. Khi Ngài la lên một tiếng, tất cả các bức màn trong đền thờ đều đồng loạt hạ xuống, Trái đất chao đảo, khi ấy những người chứng kiến trợn tròn mắt kinh ngạc: “A! Ông đúng là con của Thượng Đế!!“… Ba ngày sau Chúa Jesus phục sinh. Đây chính là nguồn gốc “lễ Phục Sinh” ở Tây phương.

Về sau Đế quốc La Mã hùng mạnh nhất thế giới đã bị bệnh dịch hạch bao trùm (“cái chết đen”), người dân chết một lượng lớn, xác chết chồng chất trên phố. Trải qua ba đợt dịch bệnh, chẳng còn mấy người sống sót, Đế quốc La Mã cuối cùng tiến đến bờ diệt vong. Người Do Thái từ đó cũng mất quê hương, bị các nước trên thế giới xua đuổi, lưu lạc khắp nơi. Trong chiến tranh thế giới thứ II, người Do Thái bị thảm sát thê thảm, chỉ còn một số ít người sống sót, an thân nơi hoang mạc, lại vẫn khói lửa chiến tranh liên miên. Con người ngày nay đã không còn tin vào Thần nữa, không còn tin rằng “Thiện ác hữu báo” nữa, không có cách nào lý giải tại sao vùng Trung Đông lại rối loạn không ngừng, chiến họa liên miên như vậy. Bởi vì họ đã đem vị Giác Giả cứu độ họ đóng đinh lên Thập tự giá, tạo nên tội nghiệp tày trời, mắc một món nợ khổng lồ vĩnh viễn không bồi hoàn được.

Vào lúc Chúa Jesus mang theo Thập tự giá, lảo đảo trên đường đến pháp trường, Ngài nhìn thấy trên đường có một người phụ nữ đang khóc vì Ngài, Ngài đã nói một cách từ bi và sâu sắc: “Cô ơi, xin cô hãy khóc cho các con các cháu của cô đi.” Với tư duy của con người thì không thể lý giải được câu nói xuyên thấu thời không của một Giác Giả vĩ đại, mãi cho tới ngày nay chẳng phải câu nói này vẫn ứng nghiệm hay sao?

* * *

Thần chính là sinh mệnh cao tầng thực sự tồn tại, hết thảy sự việc của con người đều nằm trong sự an bài của chư Thần. Lúc còn sống, thuyết vô thần của Mao Trạch Đông đã bị những người tu luyện thách thức: “Một đời của ông với 8341 là có quan hệ“. Mao không biết được vì sao, nên đã gọi bộ đội cảnh vệ của mình là “Bộ đội 8341”. Lúc lâm chung thì mới minh bạch, ấy là vì Mao thọ mệnh 83 tuổi, tại vị 41 năm (từ Đại hội Tuân Nghĩa năm 1935, Mao nắm quyền lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ, cho tới năm 1976 tạ thế)! Con người không thể thoát khỏi định số của Thần.

Từ các chủng dự ngôn có thể thấy rằng, hiện tại vũ trụ đang trong giai đoạn giao thời giữa cũ và mới. Phật Thích Ca Mâu Ni giảng về thời kỳ mạt pháp, mạt kiếp, chính là hôm nay. Mạt kiếp là kiếp tối hậu, mạt pháp là những phương pháp tu luyện trước đây không còn cứu được con người bại hoại ngày nay nữa. Vì thế vị Chủ của vũ trụ mới phải hạ thế, tự mình truyền Đại Pháp căn bản của vũ trụ, Pháp chính càn khôn, đồng thời cũng cứu độ hết thảy sinh mệnh bại hoại, bao gồm thế nhân.

Di Lặc hạ thế tại đâu?

Quốc sư triều Minh Lưu Bá Ôn tại quyển 2 «Thôi Bi Đồ» đã tiên tri:

Đại Giác Giả “Thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đáo trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính.“

(Trung Quốc hình như Kim Kê {con gà vàng}, “Kim Kê mục” là vị trí tỉnh Cát Lâm. Chỉ Giác Giả chuyển sinh nhân thế tại Cát Lâm, thuộc Thỏ, Mộc Tử tính, tức họ Lý. Trong tiếng Hán, “Mộc Tử” (木子) chính là chữ “Lý” (李)).

Ngoài ra, Lưu Bá Ôn và Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã có một đoạn đối thoại liên quan tới lịch sử ngày nay, trình bày càng rõ ràng minh bạch xuất chúng hơn nữa:

“Hoàng Đế hỏi: Cuối cùng ai sẽ truyền Đạo?

Bá Ôn đáp: Có thơ làm chứng rằng:

Không tướng tăng cũng chẳng tướng đạo
Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng
Chân Phật không ở trong tự viện
Ngài là Di Lặc nguyên đầu giáo.”

Giải: Vào cuối thời mạt pháp, người truyền chính Pháp sẽ không phải là hòa thượng trong chùa chiền, cũng không phải là đạo sĩ trong đạo quán. “Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng” ý nói người truyền chính Pháp để tóc ngắn kiểu nam tử ngày nay (đàn ông thời xưa để tóc dài), minh xác chỉ rõ: Chân Phật truyền chính Pháp không phải là người trong Phật giáo.

“Hoàng Đế hỏi: Di Lặc hạ phàm tại nơi đâu?

Bá Ôn đáp: Nghe thần nói đây: Lúc Giáo chủ tương lai hạ phàm, không ở tại Tể phủ giống quan viên, không ở tại Hoàng cung làm Thái Tử, cũng không xuất thân nơi miếu lý hoặc đạo quán, mà giáng sinh tại căn nhà cỏ của bách tính hàn vi, rải vàng khắp Yên Nam Triệu Bắc.”

Giải: Vị Chủ của vũ trụ truyền chính Pháp trong tương lai sẽ không sinh ra tại gia đình quan chức Chính phủ, không thuộc gia đình quyền quý, cũng không xuất thân tại chùa chiền hay đạo quán, mà sẽ giáng sinh trong gia đình người dân nghèo.

“Yên Nam Triệu Bắc” là chỉ vùng đất nước Yên, nước Triệu thời Chiến Quốc, tức vị trí Bắc Kinh ngày nay. “Rải vàng” là ẩn dụ Phật Pháp quý giá như vàng, truyền khắp bốn phương.

Ghi chú: Năm 1992, Lý Hồng Chí Tiên sinh bắt đầu hồng truyền Đại Pháp tại Bắc Kinh —tại Hội Sức khỏe Đông phương, mượn hình thức khí công để khiến người ta liễu giải được Pháp Luân Đại Pháp.

“Hoàng Đế hỏi: Khanh nói gì về Đạo thời đó?

Bá Ôn đáp: Lúc sắp kết thúc, vạn Tổ hạ giới, thiên Phật lâm phàm, phổ thiên Tinh Đẩu, La Hán quần Chân, mãn thiên Bồ Tát, khó thoát kiếp này, duy có mạt lai Phật hạ thế truyền Đạo, thiên thượng thiên hạ chư Phật chư Tổ, nếu không gặp con đường Kim Tuyến, khó tránh khỏi kiếp này, bị tước hết quả vị, sau cùng Di Lặc phong bế hết 81 kiếp.”

Giải: Vào lúc sắp kết thúc thời kỳ mạt pháp, vô số Vương, vô số Phật, Bồ Tát, La Hán, vô số Đạo, Chân Nhân khắp Trời, họ đều khó thoát khỏi kiếp nạn này. Họ đều thấy trước sẽ xuất hiện kiếp nạn này, đã biết trước về thời kỳ này, rằng “vạn Vương chi Vương” của vũ trụ —vị Phật tương lai— sẽ hạ xuống nhân gian hồng truyền Đại Pháp vũ trụ. Do đó họ đều ào ào chuyển sinh đến thế gian con người, lợi dụng thân người để đồng hóa với Đại Pháp được Đức Phật Chủ hồng truyền tại nhân gian. “Thiên thượng thiên hạ chư Phật chư Tổ”, bất kể là ai, nếu không gặp được “con đường Kim Tuyến” (con đường tu luyện Đại Pháp) được so sánh là quý như vàng này, thì đều không thể thoát khỏi trường kiếp nạn.

Rất nhiều dự ngôn cổ đại toàn thế giới đều đề cập rằng: “Nếu như vào lúc giao thời thiên niên kỷ phát sinh một sự kiện đặc định nào đó, thì tất cả dự ngôn về đại tai nạn hủy diệt toàn cầu đến đó là kết thúc.” Như vậy, “sự kiện đặc định” ở đây là chỉ điều gì? Vì sự an nguy của nhân loại tương lai, rất nhiều người quan tâm đến sự việc này. Tiếp theo đây, chúng ta sẽ khám phá xem «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn giải thích như thế nào về vấn đề này.

Phân tích một bộ phận «Thôi Bi Đồ»

(1) Ác ma khắp nơi, tôn giáo tiêu vong

Năm 1915 Ất Mão, mặt đất ở tỉnh Sơn Tây đột nhiên nứt ra, hiện xuất bia văn của Lưu Bá Ôn, gồm hai phần, theo thể thơ ngũ ngôn, tổng cộng 148 câu. Ngoài ra còn có vật cống phẩm và «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn từ 550 năm trước đây, tổng cộng 3 quyển. Hai bộ dự ngôn này, tiên tri rất rõ ràng từ thời Thanh mạt đến hiện tại (lúc giao thời thiên niên kỷ) về những đại sự mà xã hội Trung Quốc sẽ phải đối mặt. Vì độ dài bài viết có hạn, nên chúng ta chỉ tuyển chọn những phần có liên hệ mật thiết với sự kiện hiện đang phát sinh tại Trung Quốc ngày nay để giải thích:

“Nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni chưởng quản thiên hạ một vạn ba ngàn năm nay đã mãn, khoanh tay không có cách nào, nhìn trong chùa miếu không có hòa thượng tu Phật, Phật A Di Đà như thế nào? Thấy Cực Lạc ra sao? Ác ma khắp nơi, nhưng thiên đường Tây phương không có cửa, bách giáo đảo hướng diệt vong, …” (Quyển 1)

Giải: Đạo đức nhân loại thời mạt kiếp mười phần bại hoại, con người khắp nơi đều không có thiện niệm mà chỉ hành ác, ma tính rất lớn. Ở trong chùa miếu người chân tu càng ngày càng ít, ngay cả Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không còn cách nào, chỉ có thể buông tay không quản nữa. Trăm tôn giáo (“bách giáo”) đều suy vong, đã không còn nữa.

“Thế giới đã tận, mạt kiếp đã đến, chúng sinh chịu khổ não, vạn ma xuất động, không Tam Dương có thể điều hành, tất phải đợi Thượng Thượng Chủ Thánh tới… Ta nói rằng Thượng Thượng Chủ Thánh chính là Di Lặc Phật sẽ sớm đến, …” (Quyển 2)

Giải: Trong nguyên văn, đây là câu thoại mà “Thiên Phật” hồi đáp “Tam Thanh Ngọc Đế”, đại ý là: thế giới đã đến tận cùng tối hậu rồi, thời mạt kiếp đã đến rồi, các chủng tà ác ào ào xuất hiện (như loạn tính, giải phóng tình dục, hút hít ma túy, xã hội đen, v.v.); với đạo đức bại hoại của nhân loại ngày nay thì các Thánh nhân ban sơ không còn cứu nổi nữa, tất phải đợi “Thượng Thượng Chủ Thánh” —tức Sáng Thế Chủ tới.

(“Tam Dương” chỉ ba Thánh nhân là Lão Tử, sơ phàm Ngọc Đế và Khổng Tử; chi tiết về Di Lặc Phật xin tham khảo phần dưới đây).

(2) Di Lặc hạ thế truyền “tam tự chân kinh”

“Phật Di Lặc từ Thiên nói rằng: ‘Sau khi ta tự mình truyền tam tự tam Pháp, tất vạn pháp quy nhất, Pháp chính càn khôn,… lễ rồi thấu hư mà đi. Phàm thân Mộc Tử vi tính.“

Giải: Đoạn trên có thể giải thích như sau:

“Lúc Phật Di Lặc từ biệt sinh mệnh cao tầng trên thiên thượng nói rằng: ‘Sau khi ta tới nhân gian truyền ‘tam tự chân kinh’, nhất định sẽ quy nhất tất cả các pháp ở không gian tầng thấp nhất, dùng bộ Đại Pháp vũ trụ tối cao này để quy chính Thiên Địa,… Thi lễ xong xuyên qua Thần giới, hướng về nhân gian mà đi. Nhục thân của Phật Di Lặc tại nhân gian họ là Lý.”

(“Mộc Tử” (木子) là cách viết của chữ “Lý” (李); quá trình từ không gian của Thần hướng về không gian con người mà chuyển sinh gọi là “thấu hư”.)

“Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đáo trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính.“

Giải: Bản đồ Trung Quốc có dạng con gà vàng (Kim Kê), “mục” là con mắt, từ địa đồ Trung Quốc mà quan sát thì thấy “Kim Kê mục” chính là vị trí tỉnh Cát Lâm. Ở đây nói Phật Di Lặc xuất sinh tại Cát Lâm, vào năm Thỏ, tức nhục thân của Phật Di Lặc tại nhân gian thuộc Thỏ, họ ở nhân gian là “Lý” (Mộc Tử).

Trở về hiện thực xã hội ngày nay, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, Lý Hồng Chí Tiên sinh sinh ra tại thành phố Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm, thuộc Thỏ (sinh năm Thỏ). Năm 1992, Ông Lý Hồng Chí bắt đầu truyền công pháp Phật gia —Pháp Luân Công, hay còn gọi là Pháp Luân Đại Pháp— giảng “Chân, Thiện, Nhẫn”, tức “tam tự chân kinh”. Chỉ trong mấy năm ngắn ngủi mà số người học người luyện lên tới hàng chục triệu người.

Ở đây chúng ta đặc biệt chỉ rõ rằng Lý Hồng Chí Tiên sinh khi giảng Pháp không hề nói tự bản thân là Phật Di Lặc hoặc vị Phật nào đó chuyển thế, tuy nhiên sự bất đồng trong cách xưng hô không hề ảnh hưởng đến sự lựa chọn lịch sử. Ở đây chúng ta tôn trọng nguyên văn dự ngôn, khi tiếp tục giải thích thì vẫn bảo lưu cách xưng hô được dùng trong nguyên văn.

“Lúc ấy Di Lặc Phật nói: ‘Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử, tín nữ tử, ta truyền tam tự tam Pháp, chính là Phật tam bảo, còn có trường sinh lưỡng ngọc…’“

Giải: “Phật tam bảo” chính là “tam tự chân kinh” (“Chân, Thiện, Nhẫn”) như đã nói ở trên. “Lưỡng ngọc” là chỉ người tu luyện Pháp Luân Công, mỗi ngày luyện tập 5 bộ công pháp động công và tĩnh công, có thể khiến thân thể dần dần được vật chất cao năng lượng thay thế, cuối cùng trở nên thuần tịnh tựa như ngọc —tới đây người luyện công đã không còn bệnh nữa, do đó cũng không cần dùng thuốc, đạt được mục đích kéo dài thọ mệnh, trường sinh bất lão.

(3) Thiện-ác phân minh

“Mà Di Lặc Phật Pháp tử, người người góp đức tích ngọc, đường đường chính chính, cùng tu Di Lặc Phật truyền tam tự, nhân kiến bất nhất, tín giả thiểu, mạ giả đa, thiện ác lưỡng phân thanh.” (Quyển 1)

Giải: Đệ tử của Phật Di Lặc (đệ tử Đại Pháp), ai ai cũng đều thủ đức thực tu, đường đường chính chính cùng tu luyện ‘tam tự chân kinh’ (“Chân, Thiện, Nhẫn”) mà Phật Di Lặc truyền; còn thế nhân đối với họ có cách nhìn không giống nhau, người kiên định tín ngưỡng Đại Pháp thì ít, kẻ trách mắng Đại Pháp thì nhiều, Thiện-ác do vậy thật phân minh.

“Lúc ấy Nam Hạp Phù Đề trung thiên Trung Quốc mới có thiện nam tín nữ lễ bái tam tự Phật bảo, chân tâm kính ngưỡng tín tâm bất thoái, thành tâm thực tiễn giả chuyển phàm thành Thánh, chúng sinh bất tín.” (Quyển 2)

Giải: Đến thời điểm này, tại Trung Quốc có thiện nam tín nữ lễ bái ‘tam tự chân kinh’ (“Chân, Thiện, Nhẫn”), thực tâm kính ngưỡng, tín tâm không giảm, người thành tâm tu luyện một cách thực tiễn có thể từ phàm nhân (người thường) tu thành Thánh nhân (tức Phật, Đạo, Thần,… sinh mệnh cao cấp); người thường ở thế gian do thụ nhận ảnh hưởng của thuyết vô thần trong hàng thập niên nên không tin.

(4) Thanh ảnh tề mạ, chúng sinh bất tỉnh

«Thôi Bi Đồ» đã đề cập kỹ càng tỉ mỉ về tình huống Pháp Luân Đại Pháp bị phỉ báng và bức hại tại Trung Quốc như sau:

“Đến năm người người đều biết tam tự, không cho là đúng, thanh ảnh tề mạ, Thần khóc quỷ khóc, chúng sinh không hiểu làm sao, một kéo, hai kéo, ba kéo, chúng sinh bất tỉnh.” (Quyển 2)

Giải: Vào những năm Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền, ai ai cũng biết ba chữ “Chân, Thiện, Nhẫn”, lại có kẻ dựa vào truyền thanh truyền hình mà nhất tề phỉ báng, nhục mạ; sinh mệnh cao tầng thấy thế nhân bị ác nhân đương quyền lừa dối, che giấu, do vô tri mà bị kéo theo đồng loạt công kích Phật Pháp, từ đó đi vào con đường cụt của sinh mệnh, do đó vì họ mà khóc thương. Phật Chủ Di Lặc tiếp tục kéo dài thời gian đến Pháp Chính Nhân Gian, với hy vọng chúng sinh tỉnh ngộ để tránh bị đào thải, thế nhưng rất nhiều chúng sinh vẫn bất tỉnh!

(“thanh” là chỉ thứ phát ra âm thanh, tức truyền thanh; “ảnh” là chỉ thứ phát ra hình ảnh, tức truyền hình.)

Ghi chú: Vào những năm đầu trấn áp Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân lợi dụng báo chí, truyền thanh, truyền hình để tạo nên vô số lừa dối, ác độc công kích Đại Pháp, lại còn cố ý dàn dựng ra “vụ tự thiêu trên Quảng trường Thiên An Môn” để đầu độc vô vàn bách tính, khiến họ vì không biết mà thù hận Đại Pháp và đệ tử Đại Pháp. Họ không ngờ rằng loại “thanh ảnh tề mạ” này lại khiến họ phải nhận hậu quả nghiêm trọng.

“Chúng sinh vẫn cứ bất tín, chửi mắng, phỉ báng, hoành Thiên tảo Địa, người tin phải chịu nỗi khổ bị lưu đày giam ngục.” (Quyển 3)

Giải: Trong những năm Pháp Luân Đại Pháp bị bức hại, đệ tử Đại Pháp bị bắt giữ, kết án, thậm chí bị giết hại; tuy nhiên, chúng sinh bách tính vẫn không tin rằng Phật Pháp mà Phật Di Lặc truyền là thật, vẫn cứ phỉ báng nhục mạ Phật Pháp. Do đó, đệ tử Đại Pháp nói với thế nhân chân tướng bức hại là để giúp những người bị lừa dối và đầu độc thoát khỏi kết cục bị hủy diệt vĩnh viễn vì phỉ báng Phật Pháp.

Còn có rất nhiều điều đáng nói, tuy nhiên vì giới hạn về độ dài, người viết xin được phép dừng bút tại đây. Qua phân tích dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn, chúng ta thấy rằng sự kiện trọng đại ngày hôm nay đã được an bài từ rất lâu rồi, và rằng không có việc gì xảy ra là ngẫu nhiên. Hy vọng những ai hữu duyên đọc được bài viết này sẽ biết cách phân biệt rõ thị phi và lựa chọn cho mình một tương lai tươi sáng.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/3/8/31449.html

19 tháng 4 2011

Câu chuyện y học: Khoa chúc do trong Trung Y

Câu chuyện y học: Khoa chúc do trong Trung Y
Tác giả: Tống Thần Quang



“Khoa chúc do” được đề cập đến trong «Hoàng Đế Nội Kinh». Hoàng Đế nghe nói rằng vào thời cổ đại, các vật chất siêu vi có thể được nhập vào trong nội thể và dùng để trị bệnh bằng phương pháp chúc do.

Cái tên “chúc do” đến từ đâu? Theo «Kinh Dịch», “chúc” có nghĩa là làm hài lòng chư Thần, “do” có nghĩa là nguyên do, nguyên cớ. Vì thế, “chúc do” có nghĩa là cầu Thần ban phúc lành và tiêu trừ tai họa.

Trước đây tôi đã từng có một cuốn sách về khoa chúc do. Có khoảng 10.000 câu chú, và mỗi loại bệnh cần một câu chú khác nhau – nó rất khó nhớ. Thật khó để học các kỹ năng mà không được chân truyền, vì vậy tôi chỉ đọc một vài trang rồi lại đặt nó xuống.

Tôi nhận ra rằng có quá nhiều bệnh tật không thể chữa bằng chúc do. Thảo nào có một phần riêng biệt về khoa chúc do trong Trung Y. Ngoài ra, có một số căn bệnh rất nặng mà niệm chú không có tác dụng.

Một lần, tôi nghe được câu chuyện về một khí công sư cố gắng chữa cho một bệnh nhân bị tăng u-rê huyết vì có vấn đề về thận. Một số người với thiên mục khai mở đã nhìn thấy một linh thể giống như cá piranha (*) ở trên đầu bệnh nhân. Vị khí công sư này không có khả năng loại bỏ được linh thể ấy.

Có nhiều nguyên nhân khiến một số căn bệnh trở nên rất khó chữa. Lấy ví dụ, trước đây có một khí công sư đã tu luyện rất nhiều năm và phát triển một phương pháp chữa bệnh ung thư. Tuy nhiên, chính khí công sư này lại chết vì bệnh u não.

Sau khi tiếp xúc với một thầy thuốc Trung Y trong nhiều năm, tôi đã có thể nói được bệnh nào không thể chữa chỉ sau khi tiếp xúc sơ qua với bệnh nhân. Nhưng nếu một thầy thuốc cứ khăng khăng chữa bệnh đó, họ có thể tự mình mắc bệnh và mang đến rắc rối cho chính các thành viên trong gia đình.

Tôi cảm thấy mình là người may mắn nhất khi được là một học viên Pháp Luân Công (Pháp Luân Đại Pháp). Trong số hàng chục triệu học viên Pháp Luân Đại Pháp, có biết bao nhiêu bệnh không thể chữa được bằng cả Tây Y lẫn Trung Y? Nhưng nhờ tập Pháp Luân Công, các bệnh tật của họ đã được chữa khỏi một cách thần kỳ.

Tôi thực sự rất ấn tượng trước sự tinh thâm của Pháp Luân Công. Tôi quả thực quá may mắn khi được sống trong thời kỳ lịch sử này.

(*) piranha: một loài cá nước ngọt nhỏ sống ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, thường tấn công và ăn các động vật sống.

(Theo The Epoch Times)

«Lưu Bá Ôn bia ký» — Lời cảnh tỉnh về đại kiếp thời mạt pháp

«Lưu Bá Ôn bia ký» — Lời cảnh tỉnh về đại kiếp thời mạt pháp

Tác giả: Thần Bình chỉnh lý

[Chanhkien.org] Lưu Cơ, người đời gọi là Lưu Bá Ôn, từng phụ tá Chu Nguyên Chương giành lấy thiên hạ, kiến lập triều Minh, là Tể tướng khai quốc triều Minh. Ông tính tình khoáng đạt chính trực, liêm khiết phụng sự việc công, không chỉ là một vị tướng trong triều, mà còn là một cao nhân đắc Đạo, đã vì hậu thế mà lưu lại rất nhiều dự ngôn, bao gồm dự ngôn «Thiêu Bính Ca» được nhiều người biết. Dự ngôn của ông được người đời sau nghiệm chứng, mãi cho đến tận hiện tại, miễn là sự tình đã phát sinh thì đều vô cùng chuẩn xác. Dự ngôn của Lưu Bá Ôn trên bia đá tại núi Thái Bạch, tỉnh Thiểm Tây là do một trận địa chấn mà lộ ra ngoài, nói với người ta cảnh tượng đáng sợ về những sự việc có liên quan đến đại kiếp nạn thời mạt kiếp.

Phật Thích Ca Mâu Ni lúc còn tại thế 2.500 năm trước đây đã từng dự ngôn rằng Pháp của Ngài chỉ có thể truyền được 500 năm, 500 sau là thời kỳ mạt pháp; thời kỳ mạt pháp là do nhân tâm bại hoại, Pháp của Ngài không thể độ nhân được nữa. 500 năm mà Phật Thích Ca Mâu Ni giảng nay đã quá 2.000 năm rồi, hiện tại đã là thời kỳ mạt pháp của mạt pháp rồi. Tiên tri của nhiều dân tộc trên thế giới đều đề cập đến kỳ cuối thời mạt pháp, vào lúc giao thời giữa thế kỷ 20 và 21, nhân loại sẽ xuất hiện một trận đại kiếp nạn, đào thải rất nhiều người, chỉ lưu lại một số ít người. Trong dự ngôn trên bia đá tại núi Thái Bạch, Lưu Bá Ôn đã thấy được đại kiếp nạn sẽ phát sinh vào năm Hợi, đồng thời khuyên bảo thế nhân phải thoát hiểm như thế nào. Thiên cơ đã hiển lộ, chỉ còn xem người đời đối đãi như thế nào mà thôi.

Hiện tại xin thử giải như sau:

“Thiên có nhãn, Địa có nhãn, người người cũng có một đôi nhãn.
Thiên cũng lật, Địa cũng lật, tiêu dao tự lại lạc vô biên.”

Giải: Đạo Trời rõ ràng, sự phát triển của lịch sử nhân loại từ trước đến nay vẫn chiểu theo quy luật diễn hóa của vũ trụ mà diễn biến, chứ không hề theo ý chí của người ta mà thay đổi, hành vi của nhân loại không thể vượt qua sự phán xét của Pháp lý vũ trụ (“Thiên có nhãn, Địa có nhãn”). Do đó ai ai cũng cần phải theo tiêu chuẩn Thiện-ác của Pháp lý vũ trụ mà ước thúc chính mình, vốn có một đôi mắt để phân biệt Thiện-ác. Đặc tính tối căn bản của vũ trụ —”Chân, Thiện, Nhẫn”— là Pháp lý tối cao của vũ trụ, tức Đại Pháp vũ trụ. Nhân loại hiện nay đạo đức trượt xuống hàng ngày, tất sẽ phát sinh biến hóa đảo Trời lật Đất, chỉ có thuận theo đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ, thì mới có thể “tiêu dao tự tại lạc vô biên”.

“Kẻ nghèo một vạn lưu một ngàn, kẻ giàu một vạn lưu hai ba.
Giàu nghèo nếu không hồi tâm chuyển, nhìn xem ngày chết ở nhãn tiền.”

Giải: Trường đại kiếp nạn thời mạt pháp này, chủ yếu là xuất hiện đại ôn dịch. Trong trận đại ôn dịch này, trong một vạn người nghèo thì chết mất 9.000 người, lưu lại 1.000 người; còn trong một vạn người giàu thì chỉ lưu lại được 2, 3 người. Dự ngôn nổi tiếng Hàn Quốc «Cách Am Di Lục» từ thế kỷ 16 cũng nói rằng vào thời mạt pháp nếu nhân loại không tỉnh ngộ, thì sẽ bị hủy diệt trong “quái tật” (căn bệnh lạ), “mười hộ khó còn một”, quả là trùng hợp. Kẻ nghèo ở đây là chỉ người bình dân, bao quát cả các đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ); kẻ giàu là chỉ quan to và quý nhân. Theo báo cáo điều tra cơ cấu nhà nước, tại Trung Quốc đa số hộ giàu đều thuộc gia đình quan chức, họ là những người được hưởng lợi ích từ chế độ ĐCSTQ. Còn có những người là tham quan ô lại trong ĐCSTQ, đương nhiên càng khó thoát khỏi kiếp nạn này. Tuy nhiên vô luận là giàu hay nghèo, chỉ cần “hồi tâm chuyển” ý, bỏ ác theo Thiện, là có thể được đắc cứu, còn nếu không thì chính là “nhìn xem ngày chết ở nhãn tiền”. Cứu cánh là điều gì, “hồi tâm chuyển” là có ý gì đây? Chuyển như thế nào?

Trung Quốc từng trải qua nền văn minh huy hoàng bậc nhất trong lịch sử nhân loại, tuy nhiên trong 50 năm dưới sự thống trị của ĐCSTQ, dân tộc Trung Hoa phải đối mặt với một đại tai nạn. Trên mảnh đất Trung Hoa đại địa, ĐCSTQ hành ác trong vòng nửa thế kỷ, tàn sát hơn 80 triệu đồng bào, hủy diệt văn hóa Trung Hoa gần như không còn, phỉ báng Thần Phật, đấu Trời đấu Đất, vô pháp vô thiên, phá hoại đạo đức lương tri của nhân loại, tàn phá hoàn cảnh sinh tồn của nhân loại, tiêu tốn 1/4 quốc lực để tiến hành cuộc bức hại mang tính diệt chủng đối với quần thể tu luyện Pháp Luân Công theo “Chân, Thiện, Nhẫn”, làm những việc tà ác nhất chưa từng có trên quả đất, như mổ cắp nội tạng từ học viên Pháp Luân Công còn sống rồi đem bán kiếm lời, v.v. ĐCSTQ tà ác hoàn toàn là tà linh phản vũ trụ, phản nhân loại; giới tu luyện có công phu chân chính đều biết rằng ĐCSTQ có biểu hiện tại không gian khác là một con ác long. Trong «Khải Huyền – Thánh Kinh» miêu tả ĐCSTQ là một con rồng đỏ, gọi nó là ma quỷ, là sa-tăng. “Con thú bắt ép người của nó, bất luận lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, bần tiện hay phú quý, để ấn ký lên trán và tay phải của họ cái dấu“, điều này là gì? Lúc gia nhập ĐCSTQ (đoàn thanh niên và đội thiếu niên cũng thế), họ phải giơ cánh tay phải lên để phát lời thề độc: nguyện đem cả mạng sống giao cấp cho ĐCSTQ. «Khải Huyền – Thánh Kinh» nói, tất cả những ai thờ phụng con thú hoặc bị nó ấn ký cuối cùng đều sẽ phải bị Thượng Đế thẩm phán, uống rượu thịnh nộ của Đức Chúa Trời, rơi vào một nơi muôn kiếp không trở lại, vĩnh viễn trầm luân trong Địa ngục. ĐCSTQ tà ác chính là đối tượng cần bị tiêu diệt của thiên thượng! Vào lúc Trời diệt ĐCSTQ, cũng tiêu diệt tất cả tổ chức tà ác và từng phần tử bị ấn ký của tổ chức. Bạn không thoái xuất khỏi tổ chức đó, một mực không thoái, thì sẽ bị đào thải cùng với nó, trả nợ cùng với nó. Tuyệt đại bộ phận người Trung Quốc vì sinh tồn và lợi ích nên đã từng gia nhập đảng, đoàn, đội; bởi vì quanh năm suốt tháng bị những tuyên truyền độc hại của nó đánh lừa, nên đã nghĩ xấu về Đại Pháp “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ, trong tâm đầy thù hằn, ấy chính là phạm tội vì phản đối Đại Pháp vũ trụ (trong một dự ngôn khác, Lưu Bá Ôn nói rằng các vị Phật, Đạo, Thần khắp Trời đều cần đồng hóa với Đại Pháp, nếu không sẽ “khó thoát kiếp này, bị tước quả vị”. Như vậy có thể thấy được thế nhân phản đối Đại Pháp thì tội nghiệp nặng như thế nào). Chính vì thế toàn thể bách tính đều bị Trời khiển trách.

Hồi chuyển như thế nào? Đương nhiên là thuận theo đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ, thiện đãi Đại Pháp, thiện đãi học viên Pháp Luân Công, những người tu luyện “Chân, Thiện, Nhẫn”. Một cá nhân cho dù là kẻ nghèo đi chăng nữa, chỉ cần phỉ báng Đại Pháp, thì chính là đứng về phía ĐCSTQ tà ác phản nhân loại, nhất định nằm trong 90% bị đào thải. Còn kẻ giàu phản đối Pháp Luân Công, vì muốn bảo vệ địa vị và lợi ích của mình, trong tâm thù hận Đại Pháp hoặc phỉ báng Đại Pháp, thì nhất định nằm trong 99,9% bị đào thải. Tuy nhiên, những người này nếu có thể “hồi tâm chuyển” ý, cải biến thái độ đối với Đại Pháp, ra sức giúp đỡ Đại Pháp, thì sẽ may mắn được tồn tại trong đại kiếp nạn này. Đương nhiên, nghĩ đến “hồi tâm chuyển ý”, thì đầu tiên phải loại bỏ ấn ký của con thú đã, hướng về Thần thanh minh thoái xuất khỏi hết thảy tổ chức của ĐCSTQ, hoàn toàn thoát ly khỏi nó, ấy mới là “hồi tâm chuyển ý” chân chính. Còn nếu dấu vết con thú không tống khứ đi, con quỷ đỏ sẽ vĩnh viễn khống chế bạn, tận đến khi nó diệt vong, lúc ấy bạn cũng đi theo cùng với nó.

“Bình địa không có ngũ cốc trồng, cẩn phòng tứ phương tuyệt khói người.
Nếu hỏi ôn dịch thời nào hiện, nên xem giữa tháng Chín tháng Mười mùa Đông.”

Giải: Đại ôn dịch sẽ bùng phát vào tháng 9, tháng 10 (Âm lịch) một năm nào đó. Kết quả chính là “Bình địa không có ngũ cốc trồng, cẩn phòng tứ phương tuyệt khói người”.

“Người làm việc thiện thì được thấy, kẻ làm việc ác không được xem.
Trên đời có người hành Đại Thiện, lây bởi kiếp này thật không đáng.”

Giải: Trận kiếp nạn này khí thế hung dữ, “kẻ làm việc ác” e rằng lúc này hối hận thì đã quá muộn rồi, lập tức bị đào thải. Còn “người hành Đại Thiện” có thể chứng kiến hết thảy. Đây là thời mạt pháp loạn thế, mà lại có người “hành Đại Thiện”, thì chỉ có thể là học viên Pháp Luân Công. Họ vì sự bình an của mọi người mà truyền rộng «Cửu Bình», giảng rõ chân tướng, có người vì thế mà bị ĐCSTQ tà ác bắt giữ phi pháp, bị bỏ tù, thậm chí bị bức hại đến chết. Họ không hề muốn gì từ các bạn, chỉ mong các bạn rời xa nguy hiểm. Có người vì danh lợi mà hùa theo ĐCSTQ, lại bị văn hóa đảng mê hoặc mà cự tuyệt chân tướng từ học viên Pháp Luân Công, không muốn thoát ly khỏi ĐCSTQ tà ác, không chịu chùi sạch ấn ký của con thú, thì khó mà thoát khỏi kiếp nạn này.

“Còn có mười sầu ở trước mắt.
Nhất sầu thiên hạ loạn khắp nơi, Nhị sầu Đông Tây người đói chết,
Tam sầu hồ rộng gặp đại nạn, Tứ sầu các tỉnh khởi lang khói,
Ngũ sầu nhân dân không yên ổn, Lục sầu mùa Đông giữa tháng Chín tháng Mười,
Thất sầu có cơm không người ăn, Bát sầu có người không áo mặc,
Cửu sầu thi thể không người liệm, Thập sầu khó qua năm Heo Chuột.”

Giải: Trận kiếp nạn này còn khiến người ta gặp 10 việc sầu lớn: thiên hạ đại loạn, mất mùa, “hồ rộng gặp đại nạn” (khả năng chỉ thủy tai, hoặc vỡ đập thủy điện), các tỉnh khả năng đều gặp sự loạn, bách tính kinh hoàng không chịu nổi, còn có đại ôn dịch phát sinh vào tháng 9 tháng 10, ôn dịch khiến người chết nhiều đến mức “có cơm không người ăn”, “thi thể không người liệm”. “Năm Heo Chuột” là năm 2007 và 2008.

Dự ngôn «Cách Am Di Lục» của Hàn Quốc khi miêu tả đại kiếp nạn này nói: “Thây chất như núi bệnh độc tử”; “Thiên sơn lục giác chim bay tuyệt, Tám người vạn lối người tích diệt”. Trong «Kim Lăng tháp bi văn», Lưu Bá Ôn đã đề cập đến cảnh tượng trận đại ôn dịch này từ một góc độ khác: “Phụ mẫu tử, khó mai táng; Cha mẹ tử, con cháu vác; Vạn vật cùng chịu kiếp, sâu kiến cũng tai ương”.

“Nếu được qua khỏi đại kiếp niên, mới tính là thế gian bất lão tiên.
Cho dù là thiết La Hán làm bằng đồng, khó qua ngày mười ba tháng Bảy.
Cho dù bạn là Kim Cang thiết La Hán, trừ phi thiện mới được bảo toàn.
Cẩn phòng người người gian nan qua, giữ qua tới ngày năm Rồng Rắn.”

Giải: Cho dù bạn là thế gian phàm nhân hay Kim Cang La Hán, chỉ có tự mình thu xếp, làm theo Chân Thiện, qua ngày 13 tháng 7 một năm nào đó, tới “năm Rồng Rắn” (năm 2012 và 2013), thì mới chân chính thoát khỏi nạn này. Vì sao qua “năm Rồng Rắn” thì mới chân chính thoát khỏi nạn này? Ở đây dự ngôn của Lưu Bá Ôn và tiên đoán của người Maya 1.000 năm trước không hẹn mà trùng. Theo «Tiên tri của người Maya», người Maya cổ đại, dựa trên tính toán lịch pháp chính xác đến kinh người, đã dự đoán Thái Dương Hệ sẽ đi vào “đại chu kỳ” của Hệ Ngân Hà kéo dài 5.125 năm (từ năm 3112 TCN đến năm 2012 SCN, ngày Đông chí). Khi ấy Mặt trời cùng Hoàng đạo (Ecliptic) và Xích đạo (Equator) của Hệ Ngân Hà sẽ hình thành một điểm giao thoa hoàn toàn trùng khớp lên nhau, sau đó Địa cầu sẽ vượt khỏi phạm vi xạ tuyến của Hệ Ngân Hà để tiến nhập vào một giai đoạn mới “đồng bộ với Hệ Ngân Hà”, nhân loại sẽ tiến nhập vào một thời kỳ văn minh mới không quan hệ gì với nền văn minh hiện thời. Từ năm 1992 đến năm 2012 chính là chu kỳ diễn hóa cuối cùng của “đại chu kỳ”, người Maya gọi là “thời kỳ canh tân của Địa cầu”. Trong 20 năm canh tân Địa cầu này, Địa cầu sẽ được tịnh hóa, nhân tâm cũng được tịnh hóa, vật chất xấu hoàn toàn bị đào thải bỏ rớt đi, sự tốt đẹp và sức sống sẽ lại đến cùng “sự đồng bộ” với Hệ Ngân Hà. Từ đó có thể thấy đại kiếp nạn này chỉ là khởi đầu của sự tịnh hóa toàn diện Địa cầu, ví như nói bạn không phản đối Đại Pháp vũ trụ, lại thoát ly khỏi ĐCSTQ tà ác, xóa đi dấu vết con thú trên thân thể, thì sẽ may mắn được tồn tại giữa trận đại kiếp nạn này.

“Trẻ nhỏ giống như Chu Hồng Võ,
Tứ Xuyên còn khổ hơn Hán Trung.
Mãnh sư gầm như Lôi, hơn hẳn trăm cọp hung.
Tê giác hiện ra đuôi, bình địa gặp mãnh nhược.”

Giải: Khả năng là chỉ lúc Trời diệt ĐCSTQ, tại Trung Quốc xuất hiện một nhân vật lãnh đạo mới (có thể mang họ Chu); người này như được Thần bang trợ, thế như mãnh sư, chiến thắng thế lực cũ tà ác, quản lý thiên hạ. Vào lúc này, Trời Đất còn xuất hiện dị tượng.

“Nếu hỏi năm thái bình, dựng cầu nghênh tân chủ.
Thượng Nguyên Giáp Tử đến, người người cười ha ha.
Hỏi bạn cười cái gì? Nghênh tiếp tân địa chủ.
Trên quản tam xích nhật, tối không nạn trộm cướp.
Tuy là mưu vì chủ, chủ ngồi trung ương Thổ.
Nhân dân gọi Chân Chủ.”

Giải: Đây là những sự tình phát sinh sau đại kiếp nạn. Đại kiếp nạn này quyết không phải là “ngày tận thế”, Địa cầu hủy diệt, mà là sau đó nhân loại nghênh đón thái bình thịnh thế, bắt đầu lịch sử mới của tân kỷ nguyên, ấy chính là “Thượng Nguyên Giáp Tử”. Nhân dân từ nội tâm tán tụng vị Giác Giả cứu độ họ là “Chân Chủ”.

“Tiền bạc là vật bảo, nhìn thấu dùng không được.
Quả thực là vật bảo, lòng đất nứt không đảo.
Bảy người một đường tẩu, dẫn dụ đã vào khẩu.
Ba chấm cộng một câu, bát Vương nhị thập khẩu.”

Giải: Dự ngôn đến đây rất mập mờ, bởi vì ngoài ý nghĩa bề mặt ra thì còn ẩn tàng một tầng ý nữa. Ở đây chủ yếu là phá giải “câu đố chữ” ẩn bên trong, phá giải “câu đố chữ” của dự ngôn cổ đại thì phải dùng phồn thể.

“Tiền bạc là vật bảo, nhìn thấu dùng không được. Quả thực là vật bảo, lòng đất nứt không đảo“: là chỉ chữ “Sư” và chữ “Lý”. “Tiền bạc” là “tệ” (币), tức nửa bên phải của chữ “Sư” (師); chữ “phá” (破) trong “khán phá” (nghĩa là “nhìn thấu”) có nửa bên trái của chữ “Sư” (師); hai nửa trái phải hợp lại tạo thành một chữ “Sư” (師). Tiếp đến “Quả thực là vật bảo”, đối ứng với câu trước “Tiền bạc là vật bảo” hàm ý chữ “tệ” (币); “lòng đất nứt không đảo”, ám chỉ nửa bộ phận của chữ “垖”; hai nửa trái phải hợp nhất lại vẫn là chữ “Sư” (師). Quan trọng hơn, “Quả thực là vật bảo” ở đây chỉ vị Sư phụ mang họ “Lý”, bởi vì “quả” (果) ở đây là con của cây, tức “mộc chi tử”, chữ “Mộc” (木) đặt trên chữ “Tử” (子) chính là chữ “Lý” (李). Đoạn này rõ ràng minh thị vị Chân Chủ chính là “Lý Sư”, cụ thể là chỉ ai thì mọi người đều biết rồi.

“Bảy người một đường tẩu, dẫn dụ đã vào khẩu“: chính là chữ “Chân” (眞), viết theo tả pháp cổ đại. Chữ “Chân (眞) có thượng bộ là chữ “thất” (七), nghĩa là “bảy”; hạ bộ là do “nhân” (人) và “nhất” (一) tổ hợp mà thành, nghĩa là “một đường chạy”; đem phần “cung” (弓) của chữ “dẫn” (引) xếp đan xen vào chữ “khẩu” (口) thì tạo thành chữ “mục” (目), đây chính là phần giữa của chữ “Chân” (眞).

“Ba chấm cộng một câu“: chính là chữ “Nhẫn” (忍). Trong ba chấm này, đem một chấm đan vào bộ “đao” (刀) ở nửa trên của chữ “câu” (勾) tạo thành chữ “nhẫn” (刃); rồi lại đem hai chấm đặt lên nửa dưới “厶” của chữ “câu” (勾) tạo thành chữ “tâm” (心); chữ “nhẫn” (刃) đặt trên chữ “tâm” (心) chính là chữ “Nhẫn” (忍).

“Bát Vương nhị thập khẩu“: chính là chữ “Thiện” (善). Chữ “Thiện” (善) từ trên xuống dưới là do “bát” (八) (lật ngược), “Vương” (王), “trập” (廿) (nghĩa là 20), và “khẩu” (口) tổ hợp thành.

“Bảy người một đường tẩu, dẫn dụ đã vào khẩu. Ba chấm cộng một câu, bát Vương nhị thập khẩu“, liên kết lại tạo thành “Chân, Thiện, Nhẫn” (眞善忍). Cổ nhân tả thi văn rất coi trọng vận luật, đem câu trên và câu dưới hợp lại thì tự nhiên gián cách được khai mở.

“Người người đều hỷ cười, ai ai cũng bình an.
Người người đều khả quan, ai ai cũng khả truyền.
Có người đem tặng ấn, chớ có lấy kim tiền.
Người hành thiện được bảo, kẻ hành ác khó đào.
Kính trọng Trời Đất thần linh phụ mẫu,
Tiếc giấy chữ ngũ cốc, xin hãy nhớ lấy.”

Giải: Ngay khi Chính Pháp tiến tới nhân gian thì Địa cầu bắt đầu tịnh hóa toàn diện. Chỉ có phù hợp với đặc tính vũ trụ “Chân, Thiện, Nhẫn” thì mới có thể tiến nhập vị lai. Lúc này người người đều học Đại Pháp, ai ai cũng truyền tụng Pháp Luân Công.

Từ sáu trăm năm trước, Lưu Bá Ôn đã có cảnh báo với thế nhân về trận đại kiếp nạn này. Điều kỳ lạ là, dự ngôn này được ẩn kỹ trong mấy trăm năm rồi đột nhiên lộ ra cho thế gian nhờ một trận địa chấn, cũng tương tự với “tàng tự thạch” có niên đại 200 triệu năm tuổi vô tình được tìm thấy tại huyện Bình Đường, tỉnh Quý Châu năm 2002, trên đó ghi sáu chữ lớn “Trung Quốc Cộng sản đảng vong“, rồi dự ngôn của người Maya về “Địa cầu canh tân” bắt đầu vào năm 1992 — năm Pháp Luân Đại Pháp được truyền xuất v.v. Hết thảy đều không phải là ngẫu nhiên, đều là Thiên Ý, là Thần cảnh tỉnh con người, từ bi đối với con người. Đồng thời Thần cũng an bài những người “hành Đại Thiện” cứu độ con người tại thế gian. Thời gian quả thực rất hữu hạn, để trân quý sinh mệnh mình, xin các bạn đừng cự tuyệt những người “hành Đại Thiện” — các học viên Pháp Luân Công mang đến chân tướng cho các bạn, xin đừng phản đối Đại Pháp “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ, mau chóng thoát ly khỏi ĐCSTQ tà ác, xóa bỏ dấu vết con thú. Chớ đi theo “kẻ hành ác” không còn tính người, nếu không Thần cũng không cứu được các bạn đâu! Cơ duyên chỉ chớp mắt là trôi qua, đến khi chân tướng đại hiển mới hối hận thì đã muộn rồi! Cũng có người vì thụ nhận độc hại từ “thuyết vô thần” của văn hóa đảng trong một thời gian dài, nên hoàn toàn không tin sự việc như vậy là có thực, tìm mọi cách để chỉ trích những người “hành Đại Thiện”, thậm chí lấy oán báo ân, đi theo ĐCSTQ làm điều ác, ‘trợ Trụ vi ngược’, v.v. Tất nhiên Thần là từ bi với người, cứu độ người, nhưng tuyệt không phải là vì nhàn rỗi không có việc gì nên mới phải cứu người, với những ai không muốn được đắc cứu, thì ấy là Thần không cứu được.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/5/5/43675.html

14 tháng 4 2011

Chuyện cổ Phật gia: Công năng túc mệnh thông của Huệ Năng

Chuyện cổ Phật gia: Công năng túc mệnh thông của Huệ Năng

Tác giả: Hoằng Nghị

[Chanhkien.org] Bởi vì danh tiếng của lục tổ Thiền tông Huệ Năng truyền khắp vùng Lĩnh Nam (Quảng Đông và Quảng Tây), tăng chúng các nơi, cùng rất nhiều người quan to tước quý đều muốn đến nghe Huệ Năng thuyết pháp. Danh vọng của ông càng ngày càng lớn, khiến Bắc phái của Thần Tú ở Ngọc Tuyền Tự, xa tận Kinh Nam vô cùng bất an. Thần Tú bản thân không để ý lắm, nhưng các môn đồ của ông thì lại sợ hãi mưu tính, đều muốn cho Huệ Năng thấy một chút lợi hại. Họ đều nghĩ đến rất nhiều biện pháp, trong đó có chủ ý của một hòa thượng tên là Chí Minh, ông ta nói rằng mình có một bằng hữu tục gia tên là Trương Hành Xương, rất thích bênh vực kẻ yếu, hơn nữa võ nghệ hơn người, có thể thay mặt họ tới dạy bảo Huệ Năng một phen.

Mọi người đều thấy rằng biện pháp này quả là bất hảo, nhưng nhất thời không nghĩ được biện pháp nào khác, nên đành căn dặn: “Điểm tới là dừng, để Huệ Năng chú ý là được rồi, đừng làm tới tuyệt tình.” Thế là Chí Minh ra đi tìm Trương Hành Xương, nói với ông ta rằng Huệ Năng có rất nhiều điều không phải, nhờ ông ta dạy cho Huệ Năng một bài học. Việc xong xuôi rồi thì biếu 10 lạng vàng gọi là tạ ơn.

Đêm hôm đó, Trương Hành Xương sửa soạn lên đường, giắt bên mình một con dao nhọn, đi gấp ngày đêm, một mạch đến thẳng Tào Khê. Cũng hôm ấy, khi Huệ Năng đăng đàn giảng pháp như thường lệ thì đột nhiên thấy trước mắt xuất hiện bầu trời mênh mông, thấu tận ngoài vạn lý, chỉ thấy một người nét mặt lộ rõ sát cơ, đang gấp rút hướng về Tào Khê truy sát.

Huệ Năng lập tức minh bạch là việc gì rồi, nhưng ung dung không biến sắc, vẫn thuyết pháp như thường lệ. Đêm hôm ấy, Huệ Năng lấy ra 10 lạng vàng đem treo lên chiếc ghế vẫn thường dùng để ngồi thiền đặt bên cạnh giường, để ngỏ cửa lớn, thổi tắt nến rồi thản nhiên kê cao gối mà ngủ.

Trương Hành Xương núp bên ngoài Bảo Lâm Tự, đợi khi đêm xuống thì mới vượt tường vào trong. Lại qua hai thời thần (4 giờ đồng hồ) nữa, ông ta mới nhẹ nhàng đẩy cửa vào phòng phương trượng, lần theo nơi có tiếng thở đều đều, rút dao nhọn ra, thì đột nhiên nhớ lại Chí Minh năm lần bảy lượt căn dặn đừng làm đến tuyệt tình, nên bèn cất dao vào bao. Nhưng rồi nghĩ lại rằng mình đã lặn lội đến đây chuyến này rồi, cớ sao không làm cho đến triệt để, nếu hôm nay mình giết được Huệ Năng, trở về biết đâu lại được thưởng nhiều vàng hơn.

Một niệm sai lầm khiến Hành Xương bạo gan làm điều ác, ông ta bước nhanh về phía trước, nhắm vào cổ Huệ Năng mà chém một nhát. Chỉ nghe thấy một tiếng keng, Hành Xương tưởng như vừa chém vào một tảng đá vậy, dao bật trở lại, cổ tay tê rần. Không kịp suy nghĩ, ông ta chém thêm liền hai nhát nữa, thì cũng đều bị bật trở lại. Vừa định tiếp tục thì nghe tiếng Huệ Năng nói: “Ác đồ to gan, còn không mau hạ con dao xuống! Gươm chính không tà, gươm tà không chính, ngươi bị người ta lợi dụng, ám sát người thiện lương, há có thể làm hại một sợi lông tơ của ta sao! Ta nợ ngươi chỉ là 10 lạng vàng, chẳng hề nợ ngươi mảy may một mạng người!”

Hành Xương thất kinh, vội vàng vứt bỏ con dao nhọn, nằm bò trên đất khấu đầu mãi không thôi, cầu xin Huệ Năng tha thứ, nguyện ý xuất gia tu hành, suốt đời phụng dưỡng Huệ Năng. Huệ Năng túm lấy 10 lạng vàng đưa cho ông ta, nói: “Nhà ngươi đi cho mau, nếu đệ tử của ta mà biết ngươi là thích khách, thì thế nào cũng làm hại ngươi. Nếu muốn xuất gia, đợi ngày khác ngươi thay trang phục rồi quay trở lại đây.” Hành Xương nuốt nước mắt tạ ơn, không lâu sau bèn xuất gia trở thành tăng nhân.

Ngày mùng 1 tháng 7 năm Huyền Tông thứ 2 triều Đường (năm 713 SCN), Huệ Năng đột nhiên triệu tập tất cả tăng chúng trong chùa và nói: “Bần tăng sẽ ly thế vào tháng 8 này, các ngươi ai còn nghi vấn gì, thì nói cho mau.” Mấy ngày sau, có đệ tử hỏi: “Đại sư cho con biết sau này còn có tai nạn gì nữa?”

“Sau khi bần tăng tạ thế được 5,6 năm, sẽ có người tới lấy đầu ta, còn xuất hiện tình huống gì nữa? Có thể dùng bốn câu dự ngôn như sau: Đầu còn thì sống, nơi miệng cần ăn, đợi hết nạn rồi, dương liễu làm quan.” Đến sớm ngày mùng 3 tháng 8, Huệ Năng không nói chuyện nữa, ngồi liền một mạch tới canh ba, nói một câu: “Ta đi đây!” rồi bình an tạ thế.

Huệ Năng chết rồi, rốt cuộc còn phát sinh sự việc lấy đầu nào nữa đây? Theo sử ghi chép, sau khi Huệ Năng qua đời 9 năm, tức vào những năm Khai Nguyên triều Đường, có một vị tăng nhân nước Tân La tên là Kim Đại Bi, nghe danh đại sư Huệ Năng đã lâu, muốn đưa đầu Huệ Năng trở về cung để cung phụng, thế là ông ta mướn một người tên là Trương Tịnh Mãn để đi lấy trộm đầu. Trương Tịnh Mãn là một người con có hiếu, nhiều năm ở nhà phụng dưỡng mẫu thân đã già, không có tiền phải ăn cháo để cầm hơi, nên mới nhận lời đi lấy trộm đầu. Chẳng ngờ Tịnh Mãn vừa đột nhập vào Bảo Lâm Tự ở Tào Khê thì sự tình bại lộ, đầu không lấy được, mà còn bị kết án truy nã. Chính như dự ngôn của Huệ Năng nói, xét xử vụ án này là quan Thích sử tên Liễu Vô Thiểm, còn Huyện lệnh Khúc Giang vùng Tào Khê tên là Dương Khản, đúng là “dương liễu làm quan”!

Công năng túc mệnh thông là gì? Trong «Chuyển Pháp Luân» giảng rằng:

“Ấy là có thể biết được tương lai và quá khứ của cá nhân; lớn nữa thì có thể biết được sự thịnh suy của xã hội; còn lớn hơn nữa thì có thể thấy được những quy luật biến hoá của toàn thiên thể; đó chính là ‘công năng túc mệnh thông’.”

Trong lịch sử có rất nhiều dự ngôn cổ xưa, chẳng hạn như «Các Thế Kỷ» của nhà tiên tri người Pháp Nostradamus, «Cách Am Di Lục» của Hàn Quốc, «Mã Tiền Khóa», «Thôi Bối Đồ», «Thiêu Bính Ca» của Trung Quốc, v.v. dự ngôn phi thường chuẩn xác, kỳ thực tác giả đều là có công năng túc mệnh thông. Họ đều dự ngôn rằng nhân loại ngày nay sẽ phát sinh một sự kiện trọng đại, dự ngôn về xu thế “Trời diệt Trung Cộng” không cưỡng lại được. Người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp càng hiểu rõ hơn những biến đổi cự đại trong vũ trụ, do đó mới toàn lực truyền «Cửu Bình», khuyên tam thoái, chính là mang đến tương lai tươi sáng cho con người thế gian.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/12/3/41198.html
http://pureinsight.org/node/4355

13 tháng 4 2011

Hội họa Trung Quốc: “Giữa khóm hoa sen”
Tác giả: Yaowen (Đài Loan)

[Chanhkien.org]


Dịch từ:

http://pureinsight.org/node/1702

Chia sẻ bài viết này

Hội họa Trung Quốc: “Tiên nữ Hoa Sen”
Tác giả: Chương Thúy Anh

[Chanhkien.org]


Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/8/27/18280.html
http://pureinsight.org/node/1706

Chia sẻ bài viết này

Hội họa Trung Quốc: “Tranh mỹ nữ”
Tác giả: Chương Thúy Anh

[Chanhkien.org]


Viết trong bức tranh:

“Nghỉ ngơi dưới bóng cây lúc trời sẩm tối
Ta cài một đóa hoa tươi lên mái tóc.”

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/9/11/18457.html
http://pureinsight.org/node/1817

08 tháng 4 2011

Thảm họa lớn được nhìn thấy trong khi thiền định

Thảm họa lớn được nhìn thấy trong khi thiền định

Tác giả: Long Feng Cheng Xiang

[Chanhkien.org] Đệ tử Đại Pháp Longlong đã nhìn thấy một thảm họa lớn khi anh đang thiền định và phát chính niệm. Một năm trước, anh cũng đã thấy một vài cảnh tượng tương tự. Một số cảnh tượng khác được triển hiện một cách từ từ, và một số thì mới được thấy gần đây. Chúng tôi đã không viết chúng ra, bởi vì chúng tôi e rằng sẽ tiết lộ thiên cơ. Nhưng mới đây, chúng tôi đã đọc được một số bài viết nói về thảm họa. Do đó, chúng tôi nghĩ rằng viết những điều này ra có thể có tác dụng cảnh tỉnh thế nhân.

Những người tu luyện đều biết rằng mọi thứ là tiền định, nhưng một số thứ có thể thay đổi, đặc biệt là giờ đây khi lịch sử nhân loại đã tiến đến thời khắc quan trọng này, với sự lựa chọn giữa sự sống và cái chết. Chỉ một niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo” xuất ra là có thể quyết định sự sống-chết của một người. Tuy nhiên lần này còn đặc biệt hơn nữa: chính niệm hay niệm bất chính đối với Đại Pháp sẽ quyết định liệu sinh mệnh ấy trường tồn hay hủy diệt mãi mãi. Chính niệm đối với Đại Pháp là trọng yếu đến như vậy!

Trong khi thiền định, Longlong nhìn thấy Sư phụ đang không ngừng trì hoãn và làm suy yếu các thảm họa lớn cũng như quá trình đào thải con người trên phạm vi rộng. Một lần nọ, anh trông thấy Sư phụ đảo ngược chiếc đồng hồ cát để khiến một thảm họa lớn không xảy ra. Một lần khác, Longlong thấy Sư phụ di chuyển cát ngược trở lại chiếc bình chứa [của đồng hồ cát]. Sư phụ đã gia hạn thời gian cho chúng ta, để đệ tử Đại Pháp có thêm thời gian cứu độ thế nhân và tu luyện; Sư phụ cũng kéo dài thọ mệnh của con người để họ có cơ hội biết được sự thật, thoát khỏi sự khống chế tà ác của đảng cộng sản Trung Quốc và được Đại Pháp cứu độ. Cũng có nhiều điều có lẽ đã xảy ra nhưng đã không xảy ra, bởi vì Sư phụ đã gánh chịu nó; cũng có nhiều điều lẽ ra đã kết thúc rồi nhưng Sư phụ vẫn cấp thêm cơ hội cho chúng sinh. Chúng ta không có cách nào biết được sự từ bi khổ độ của Sư phụ cũng như những gì mà Ngài đã gánh chịu thay cho đệ tử Đại Pháp và chúng sinh.

Sau đây là những thảm họa mà Longlong đã nhìn thấy:

1. Mặt đất nứt gẫy: Mặt đất sụt xuống tạo nên những hố lớn; các tòa nhà và con người rơi xuống những cái hố ấy. Điều này đã xảy ra tại nhiều quốc gia và được báo cáo trên các bản tin thời sự. Nhưng quy mô hiện tại mới chỉ là giai đoạn khởi đầu.

2. Lở đất: Bùn đất chôn vùi các ngôi nhà, làng mạc và con người. Điều này đã xảy ra tại nhiều quốc gia và được báo cáo trên các bản tin. Đây cũng mới là giai đoạn khởi đầu.

3. Tràn dầu: Điều này đã xảy ra, nhưng chưa phải là kết thúc. Nó đã được định trước. Con số cụ thể không thể được tiết lộ và cũng không cần thiết phải tiết lộ. Các sinh vật trong đại dương đang chịu đựng, và con người cũng đã phải chịu đựng.

4. Đảo cực Trái đất: Bốn phương hướng, Đông, Tây, Nam, Bắc trở nên bị đảo lộn. Những ai hướng về phương Đông để thờ cúng sẽ không biết đâu là hướng Đông nữa. Con người sẽ bị lạc lõng trong thế giới này. Hệ thống Định vị Toàn cầu (GPS) cũng không hoạt động nữa. Trục Trái đất sẽ bị lệch rất mạnh trong vũ trụ, khiến các dòng sông băng ở Bắc Cực và Nam Cực bị trôi đi một cách vô định. Rồi chúng sẽ tan ra, khiến mực nước biển dâng lên và ập vào các thành phố. Sa mạc sẽ trở nên nóng ẩm; rừng sẽ trở nên khô hanh. Động thực vật ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới sẽ phải chịu đựng. Nói cách khác, nơi nóng sẽ trở nên lạnh và nơi lạnh sẽ trở nên nóng; nơi khô sẽ trở thành ẩm và nơi ẩm sẽ trở thành khô. Khi điều này xảy ra, rất nhiều động thực vật sẽ bị tiêu hủy.

5. Động đất và sóng thần: Những trận sóng thần cao tới vài trăm mét sẽ ập vào bờ. Với lượng nước tan ra từ những dòng sông băng, nó sẽ đủ để nhấn chìm rất nhiều thành phố. Khi điều này xảy ra, rất nhiều người sẽ bị hủy diệt.

6. Bệnh dịch khủng khiếp: Con người, động vật và cây cối đều sẽ hứng chịu thảm họa này. Bệnh dịch lan đến đâu, các tòa nhà đổ sập đến đó. Đường phố, cầu cống, hoa cỏ và cây cối, cũng như lượng nghiệp lực khổng lồ của chúng, sẽ bị nuốt chửng bởi một loại sức mạnh và chuyển thành cát bụi.

Trong số những người bị nhiễm bệnh dịch, một số sẽ bị chảy máu mũi, miệng và tai rồi chết; một số sẽ đột tử khi đang đi bộ trên đường. Bác sĩ không thể tìm ra nguyên nhân và tất nhiên không thể cứu chữa. Nhiều người sẽ đổ xô vào bệnh viện trong vô vọng. Niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo” có thể cứu sống một người. Con người, xin hãy nhớ lấy! Đây là cách duy nhất để được cứu. Xin hãy thử xem!

Số người chết sẽ lên đến hàng triệu. Nó sẽ xảy ra không chỉ tại Trung Quốc mà trên khắp thế giới. Thông qua thiên mục, người ta có thể thấy virus thâm nhập khắp cơ thể người. Một con virus sẽ phân chia thành hai; hai thành bốn; và cứ như thế. Tốc độ phân chia là rất nhanh. Một số virus sẽ ở lại trong cơ người và tiếp tục phân tách, trong khi số còn lại chạy sang cơ thể người khác. Hiện tại nhiều người đã bị nhiễm, và virus đang lây lan nhanh chóng. Khi thời gian tới, con người khắp thế giới sẽ nghe được tin tức rằng hàng triệu người đã chết vì bệnh dịch.

Khi virus dính vào cơ thể người, người đó không hề cảm thấy gì. Khi virus đi ngang qua đệ tử Đại Pháp, nó sẽ dừng lại trước trường năng lượng của chúng ta. Nhưng những đệ tử nhạy cảm có thể cảm thấy cái gì đó quét nhẹ qua tóc họ. Điều gây tò mò là, không chỉ người thường mà một số đệ tử Đại Pháp cũng bị nhiễm virus. Longlong thấy Sư phụ lấy virus khỏi đa số đệ tử Đại Pháp và khóa chúng ở đâu đó, nhưng điều này không xảy ra với tất cả các đệ tử Đại Pháp. Ở đây tôi muốn nhắc nhở các học viên rằng tu luyện là nghiêm túc; Chính Pháp là nghiêm túc. Nếu một đệ tử Đại Pháp không thay đổi tâm họ và không tu luyện chiểu theo Chân-Thiện-Nhẫn, thì bất cứ điều gì xảy ra với một người thường cũng sẽ xảy ra với anh ta. Một ngày nào đó, sẽ không còn lại cơ hội nào nữa. Sư phụ là từ bi, nhưng Đại Pháp cũng uy nghiêm.

Ở nhiều không gian, virus có màu đen. Nhưng ở một không gian thâm sâu hơn, virus có màu trắng và được cấu thành bởi công (vật chất cao năng lượng) thuần tịnh. Vì nó rất sáng, nó có màu đen ở các không gian khác. Những ai bị hủy diệt bởi công là rất xấu và chứa đầy nghiệp. Từ góc độ khác mà nói, họ không đáng được cứu độ. Một số họ khoác vào lớp da người và trông rất giống người.

Mỗi phương thức tiêu hủy được tiến hành bởi các vị Thần chuyên trách. Tại tầng thứ của mình, Longlong thấy các con rồng phụng mệnh Thiên Ý, cũng như lính tôm và tướng cua đang hiệp trợ thực hiện. Anh cũng thấy một đệ tử Đại Pháp người Tây phương có biểu hiện là một con rồng ở một không gian. Ở thế gian con người, anh là một quân nhân. Nhưng Longlong không biết nguồn gốc của anh ấy, và chỉ có Sư phụ biết. Khi Longlong nhìn thấy thảm họa, anh cảm thấy rụng rời. Anh cũng thấy một số cảnh tượng trong giấc mơ. Anh không dám nhìn vì những cảnh tượng đó quá đáng sợ, và anh đã thét lên rồi thức tỉnh. Đệ tử Đại Pháp đang cứu người. Nhưng những con rồng kia đang gây lụt lội và lở đất để chôn vùi con người. Chẳng phải rồng cũng là sinh mệnh chân chính hay sao? Khi Longlong nhìn thấy điều này, anh đã quỳ xuống và cầu xin Sư phụ rằng anh sẵn sàng che chở để chúng sinh thoát khỏi thảm họa. Sư phụ đã điểm ngộ anh: một mặt, chúng ta cần cứu thêm nhiều người hơn; mặt khác, những ai không thể cứu độ cần bị đào thải. Vũ trụ không thể bị ô nhiễm bởi những thứ rác rưởi.

Trong các bài giảng Pháp, Sư phụ giảng rằng quá trình đào thải con người trên diện rộng là không liên quan gì đến những người tốt hay người tu luyện. Chỉ người xấu mới bị loại trừ.

Những hiểu biết trên đây chỉ ở tại tầng thứ tu luyện hiện thời của tôi. Do đó nó có thể không chính xác. Tôi hy vọng con người có thể thức tỉnh, và cũng hy vọng những đệ tử Đại Pháp nào chưa đạt tiêu chuẩn hãy thức tỉnh. Tôi hy vọng tất cả đệ tử Đại Pháp đều có thể: “Trảo khẩn cứu độ khoái giảng” (Tận dụng thời gian cứu độ và giảng nhanh lên) (“Khoái giảng”, Hồng Ngâm II).

Dịch từ:

http://pureinsight.org/node/6119

07 tháng 4 2011

Hội họa Trung Quốc: “Chính Thần tảo trừ”
Bản để in
Tác giả: Chu Mỹ Nương

[Chanhkien.org]


Viết trên đầu:

Chính Thần

Chính niệm chính hành
Tinh tấn bất đình
Trừ loạn Pháp quỷ
Thiện đãi chúng sinh

Tảo trừ

Âm vân quá – Phong hài cấp
Xích long trảm – Nhân hài mê
Tà ác xứ – Hữu âm mai
Đại Pháp đồ – Đơn chưởng lập
Trừ dư ác – Chính niệm khởi
Giảng chân tướng – Cứu chúng sinh
Diệt ác tận – Tảo hoàn vũ

(Hồng Ngâm II)

Viết bên tay trái:

Bởi Chu Mỹ Nương, đệ tử Đại Pháp Đài Loan
Với sự cung kính vô hạn
Tháng 5 năm 2003
[Triện con dấu của Chu Mỹ Nương]

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2003/6/18/22131.html
http://pureinsight.org/node/2215

Hội họa Trung Quốc: “Sông núi – Cây cầu – Túp lều”

Tác giả: Chương Thúy Anh


[Chanhkien.org] Phong cảnh ao hồ và sông núi là những chủ đề được ưa thích trong hội họa Trung Quốc. Chỉ trong không gian giới hạn của bức tranh này, họa sĩ đã miêu tả được ba lớp cảnh quan chính: Những ngọn núi xanh xám ở đằng xa, ngọn núi xanh tươi ở ngay gần, và ngôi làng nhỏ ven hồ ở cận cảnh.

Dịch từ:

http://pureinsight.org/node/1257

Tác giả: Chương Thúy Anh
[Chanhkien.org]



Viết trong bức tranh:

Uy Đức

Đại Pháp bất ly thân,
Tâm tồn Chân Thiện Nhẫn;
Thế gian nhân La Hán,
Thần quỷ cụ thập phân

(“Uy Đức”, Hồng Ngâm)

Bởi đệ tử Đại Pháp Thái Hạnh [bút danh của Chương Thúy Anh]
Với đôi bàn tay trong sạch và cung kính.
[Triện con dấu của Chương Thúy Anh]

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/7/18/16834.html
http://pureinsight.org/node/1963

04 tháng 4 2011


Tác giả: Chương Thúy Anh

[Chanhkien.org]


‘Quan Âm Bồ Tát cưỡi thuyền sen’.
Viết trong bức tranh:

“Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ bi”
Bởi đệ tử Phật gia Thái Hạnh [bút danh của Chương Thúy Anh]
Với đôi bàn tay trong sạch và cung kính.
[Triện con dấu của Chương Thúy Anh]

Được biết đến với lòng từ bi, Quan Âm Bồ Tát là một trong hai vị Bồ Tát ở Thế giới Cực Lạc. Bằng Pháp lực vô hạn và lòng từ bi cứu độ chúng sinh, Bồ Tát ngồi trên thuyền sen với nhành dương liễu cắm trong chiếc bình tịnh thủy. Mỗi khi nước cam lộ trong chiếc bình được vẩy xuống chúng sinh, mọi bệnh tật và tai nạn đều biến mất.

Dịch từ:

http://pureinsight.org/node/2211



Tác giả: Chương Thúy Anh

[Chanhkien.org]

‘Đồng tử bái Quan Âm’.
Viết trong bức tranh:

“Một Giác Giả trong sắc trắng”
Bởi Zhang Hui [bút danh của Chương Thúy Anh]
Với sự cung kính
[Triện con dấu của Chương Thúy Anh]

Quan Thế Âm Bồ Tát có nhiều hình tượng khác nhau, như Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, Bạch Y Quan Âm, Tịnh Thủy Quan Âm (còn gọi là Dương Liễu Quan Âm), Tống Tử Quan Âm, v.v. Bức tranh “Đồng tử bái Quan Âm” này là vẽ Bạch Y Quan Âm. Quan Thế Âm Bồ Tát trong y phục màu trắng ngồi trên tấm bồ đoàn, tay cầm chiếc tịnh bình (tức bình cam lộ), trong tịnh bình cắm một nhành liễu. Một tiểu nam hài trong trang phục màu đỏ đang đứng song thủ hợp thập, lễ bái Quan Âm Bồ Tát. Quan Thế Âm Bồ Tát và đồng tử trong bức họa được vẽ với đường nét cực kỳ giản đơn lưu loát, sắc thái thanh nhã tự nhiên, hình tượng siêu phàm thoát tục. Bồ Tát trong bức họa nhìn hiền từ phúc hậu, mỹ lệ đoan trang.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/7/19/16836.html

02 tháng 4 2011

Nghiên cứu phương Tây về luân hồi: Tu tâm trọng đức giúp trị bệnh kinh niên

Nghiên cứu phương Tây về luân hồi: Tu tâm trọng đức giúp trị bệnh kinh niên

Tác giả: Tử Quân

[Chanhkien.org] Vừa mới cất tiếng khóc khi chào đời, chúng ta không hề biết được điều gì sẽ chờ đợi chúng ta trong tương lai. Khi ở tại thế giới này, chúng ta trải nghiệm cả sự hạnh phúc lẫn khổ đau. Đến lúc cần rời khỏi thế giới này, số phận sẽ mang chúng ta đi. Những câu chuyện về luân hồi chuyển thế đã được truyền tụng hết đời này qua đời khác. Nợ nghiệp đời trước sẽ được hoàn trả trong đời này, trong khi việc thiện từ đời trước sẽ dẫn tới phúc báo trong đời này. Nếu ai đó nói rằng bệnh tật trong đời này là do “nghiệp lực luân báo”, và tu tâm trọng đức có thể trị bệnh, thì bạn có tin hay không?

Trong cuốn sách Many Mansions có câu chuyện về việc Edgar Cayce trị bệnh như sau.

Một người đàn ông nọ mắc chứng xơ cứng mật độ cao và không thể làm việc trong vòng ba năm. Ông bị mù, và sẽ ngã xuống nếu cố gắng đi lại. Ông đã đi nhiều bệnh viện và được trả lời rằng căn bệnh của ông không thể chữa được. Gần như vô vọng, ông tìm đến Edgar Cayce để tìm hiểu về tiền kiếp của mình. Cayce đã “đọc” tiền kiếp của ông và nói rằng nghiệp lực gây ra trong kiếp trước đã khiến ông phải chịu căn bệnh này. Người đàn ông đã hỏi Cayce làm sao có thể chữa bệnh. Cayce nói rằng ông phải loại bỏ tình cảm oán hận và đau khổ, đồng thời cho ông một chỉ dẫn chi tiết để làm theo.

Một năm sau, người kỹ sư điện này liên lạc lại với Edgar Cayce. Trong thư gửi Cayce, ông nói rằng triệu chứng của ông đã được giảm nhẹ ngay lập tức sau khi ông theo chỉ dẫn điều trị. Tuy nhiên, sau khi ông bắt đầu tập trung vào Tây Y, vật lý trị liệu và bỏ qua việc tu dưỡng tinh thần thì căn bệnh lại xấu đi. Cayce nói với ông rằng sức khỏe của ông đã cải thiện rất nhiều, nhưng ông cần làm tốt hơn nữa. Cayce nhấn mạnh rằng căn bệnh của ông là do nghiệp lực tạo thành. Liệu pháp vật lý chỉ có thể giúp giảm nhẹ một chút bệnh. Nhưng nếu ông vẫn ích kỷ và không thể tự kiểm điểm hành vi, vẫn căm phẫn bất bình và không thể giữ tâm từ thiện khi chịu thống khổ, vẫn không thể tự cải thiện nội tâm mình, thì ông không thể hồi phục. Chỉ bằng cách cải thiện lời nói và hành vi, tình trạng của ông mới có thể cải thiện.

Từ trường hợp này, chúng ta có thể thấy rằng lời giáo huấn của người xưa “trọng đức, tích đức” không phải là không có cơ sở. Khi người đàn ông trên chú trọng hành vi, tu dưỡng tinh thần, giữ tâm nhân từ, khiêm tốn vô tư, thì bệnh tình của ông sẽ chuyển biến. Nhưng nếu chỉ chú trọng trị liệu vật chất mà quên mất tu dưỡng tinh thần, thì sức khỏe của ông chỉ cải thiện rất ít. Tu tâm trọng đức có thể tiêu nghiệp và lập tức loại trừ bệnh tật. Từ đó có thể thấy rằng tu tâm đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống chúng ta.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/11/21/19282.html
http://pureinsight.org/node/1281