27 tháng 12 2010

Dựa thế ỷ mạnh sẽ gặp tai ương, khiêm tốn cẩn thận sẽ vượt khổ nạn

Bài viết của Thanh Ngôn

[MINH HUỆ 16-11-2005] Kỷ Hiểu Lam là một học giả nổi tiếng thời nhà Thanh, ông làm quan tới chức Lễ bộ Thượng thư, kiêm Đại học sĩ, từng nhậm chức quan chủ biên bộ sách “Tứ khố toàn thư”. Khi sinh thời, ông có viết một cuốn sách lấy tên là “Duyệt vi thảo đường bút ký”, trong đó kể lại một câu chuyện như sau:

Quê nhà ông có một người tên là Đinh Nhất Sĩ. Người này rất cường tráng nhanh nhẹn, lại còn luyện tập quyền thuật và khinh công. Nơi cao đến 2 hoặc 3 trượng anh ta phi thân một cái là có thể nhảy lên trên, khoảng đất rộng mấy trượng anh ta cũng nhảy một cái là qua được. Kỷ Hiểu Lam kể rằng bản thân ông từ lúc còn bé đã từng được chứng kiến công phu của người này. Lúc ấy ông đang đứng ở trong sảnh, nhìn về phía trước cửa thì thấy Đinh Nhất Sĩ đang đứng ở ngoài cửa, đối diện với nhau. Khi ông vừa xoay người về phía sau một cái thì Đinh Nhất Sĩ đã đứng ở bên ngoài cửa sau rồi, lại tiếp tục đối diện nhau, cứ như vậy đến 7, 8 lần. Đinh Nhất Sĩ cất mình nhảy lên một cái là có thể nhảy qua mái nhà, như vậy chứng tỏ đã luyện thành công phu.

Sau này, có một lần Đinh Nhất Sĩ đi ngang qua thị trấn Đỗ Lâm, gặp một người bạn mời anh ta đến quán rượu bên cầu cùng uống rượu. Hai người đứng ở bờ sông, khi đã uống rượu thỏa thích, người bạn bèn nói với Đinh Nhất Sĩ: “Anh có thể nhảy qua bên kia sông không?”. Nói chưa dứt lời thì Đinh Nhất Sĩ đã phi thân nhảy qua rồi. Vị bằng hữu kia gọi anh ta trở về, vừa nói xong anh ta đã nhảy trở về. Nhưng không ngờ ở chỗ vách đất dựng đứng phía bờ người bạn, ngay lúc anh ta nhảy đi đất đã nứt ra một khe hở rồi. Đinh Nhất Sĩ không nhìn thấy, khi anh ta nhảy về, một chân vừa đạp xuống thì bờ sông liền sụp xuống mất vài thước, thế là anh ta rớt luôn xuống sông, bị nước cuốn trôi. Không may Đinh Nhất Sĩ lại không biết bơi. Anh ta từ trong nước nhảy lên được vài thước, nhưng chỉ có thể nhảy thẳng lên xuống chứ không nhảy tới bờ sông được. Nhảy lên rớt xuống 4 5 lần như vậy, cuối cùng anh ta vì kiệt sức mà bị chết đuối.

Kỷ Hiểu Lam vì thế mà cảm thán, đại ý rằng trong thiên hạ không có cái họa nào lớn bằng cái họa ỷ tài ỷ thế không biết sợ. Kẻ ỷ giàu dễ chết vì kiệt quệ, kẻ ỷ thế dễ chết vì thất thế, kẻ ỷ mưu trí dễ chết vì mắc mưu, kẻ ỷ sức dễ chết vì kiệt sức. Đó là bởi vì những người ỷ thế cậy tài thường hay mạo hiểm mà cuối cùng chuốc họa.

Kỷ Hiểu Lam nhắc lại câu chuyện, kể về Điền hầu Tùng Nham từng mua một cây gậy trên núi Lao Sơn và viết một bài thơ:

“Nguyệt tịch hoa thần bạn ngã hành
Lộ đương thản xử diệc phòng khuynh
Cảm nhân thị nhĩ tâm vô lự
Tiện hướng khi khu bộ bất bình.”
Dịch nghĩa:
“Cùng với ta đi, khi Trăng sáng cũng như lúc hoa nở Trời lên
Đường đang bằng phẳng cũng phòng khi khuynh đảo
Bởi vì cậy có bạn tâm ta không lo lắng
Thuận lợi bước chân trên đường trắc trở gập ghềnh”.

Đại ý của bài thơ này là, cho dù con đường có phẳng lặng cũng nên phòng khi khuynh đảo, cầm cây gậy Lao Sơn này trong tay mới có thể yên tâm đi trên đường núi gập ghềnh. Ngụ ý của bài thơ là khuyên người ta dù ở nơi nào cũng cần có thái độ xử tế khiêm tốn thận trọng, khi đối diện với những gian nan trắc trở trên đường đời thì không thể cậy tài khinh người, không được ỷ quyền cậy thế chẳng biết kiêng sợ, tự cao tự đại. Kỷ Hiểu Lam bình luận những lời thơ ấy của Điền hầu quả thật là lời của người lịch duyệt, rất đáng quý, đáng phục.
Bản tiếng Hán: http://www.minghui.org/mh/articles/2005/11/16/114113.html
Bản tiếng Anh: http://clearwisdom.net/html/articles/2006/1/7/68763.html
Đăng ngày: 22-12-2010: Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản

24 tháng 12 2010



Khấu Tuân, tự là Tử Dực, là người huyện Thượng Cốc, Xương Bình (nay là Bắc Kinh) sống vào thời Đông Hán. Ông là vị tướng soái được Quang Vũ hoàng đế nể trọng. Ông thông hiểu kinh thư, tu dưỡng Đức hạnh, tại triều đình rất có danh tiếng, người thời đó đều ca ngợi ông là người đạo đức cao thượng, cho rằng ông có tài năng xứng đáng làm Tể tướng. Ông gặp chuyện có thể nhẫn nhục nhượng bộ, không kể thù riêng, luôn luôn lấy đại cục làm trọng.

Khấu Tuân từng đảm nhiệm chức Thái thú Toánh Xuyên. Lúc đó tướng lĩnh quản lý quân tuần vệ bên ngoài cung tên là Cổ Phục, lúc tại Nhữ Nam nghe nói một thuộc hạ của mình tại Toánh Xuyên giết người, kết quả bị Thái thú Khấu Tuân bắt được, ngay tại giữa phố xá náo nhiệt xử tử. Cổ Phục vì thế cảm thấy rất sỉ nhục, lúc từ Nhữ Nam trở về đi ngang qua Toánh Xuyên, nói với người bên cạnh rằng: “Ta và Khấu Tuân đều là tướng soái, nhưng giờ bị hắn hãm hại, đại trượng phu làm sao để bị người ta khi dễ mà lại không cùng hắn nhất định phân cao thấp? Lần này gặp được Khấu Tuân, ta nhất định phải giết hắn”.

Khấu Tuân nghe nói, không muốn gặp Cổ Phục. Cốc Sùng nói: “Cốc Sùng tôi là tướng lĩnh, có thể mang kiếm hầu bên cạnh, nếu đột nhiên có chuyện gì, có thể ngăn chặn được”.

Khấu Tuân nói: “Không được. Trước kia Lận Tương Như không sợ Tần vương, nhưng lại khuất phục Liêm Pha, đó là vì quốc gia. Nước Triệu nhỏ bé, lại có người hiểu biết đạo lý như thế, ta làm sao có thể quên được?”. Thế là ra lệnh cho các huyện sở tại hầu hạ bọn người Cổ Phục cho thật tốt, còn mình thì cố ý mượn cớ né tránh ông ta. Cuối cùng bọn người Cổ Phục đều uống rượu say, không truy tìm Khấu Tuân, chỉ quá cảnh rồi rời đi.

Khấu Tuân phái người báo cáo chuyện xảy ra tại nơi đây cho Quang Vũ hoàng đế biết. Quang Vũ hoàng đế bèn triệu Khấu Tuân vào cung. Khấu Tuân vào tới nơi, phát hiện Cổ Phục đã ở đó trước rồi, thế là lại muốn né tránh. Quang Vũ đế nói với ông: “Thiên hạ còn chưa có yên ổn, hai hổ làm sao có thể tranh đấu riêng tư đây? Hôm nay ta tới giảng hòa”. Thế là 3 người cùng ngồi xuống, nói chuyện hết sức vui vẻ. Cuối cùng Khấu Tuân và Cổ Phục cùng cưỡi một cỗ xe ra ngoài, hai người kết làm bạn tốt, chào từ biệt nhau rồi về nhà.

Gặp chuyện nếu không thể nhẫn nhục nhượng bộ, thì sẽ phải dẫn đến kết oán lâu dài, dẫn đến tai họa, hỏng việc hại người. Sử sách bình luận về Khấu Tuân như sau: “Khổng Tử nói: ‘Bá Di, Thúc Tề, không nhớ thù xưa, cho nên có ít kẻ thù’. Khấu Tuân là một ví dụ điển hình”.

Hành vi của Khấu Tuân không phải là nhu nhược bất lực, mà là lòng dạ bao la, tầm nhìn sâu rộng, là biểu hiện của người có Đức hạnh và có thể hoàn thành việc lớn. Bởi nhượng bộ được, nên cuối cùng mối thù giữa ông và Cổ Phục có thể được hóa giải, 2 người từ kẻ thù trở thành bạn hữu, cùng nhau giúp vương triều Đông Hán thống nhất được Trung Nguyên.

Thanh Ngôn
(Theo MinhHue.net)

21 tháng 12 2010

Quan điểm của Trung Y về ‘stress’

Tác giả: Bác sĩ Trung Y Meiyi Lin

Trong xã hội ngày nay, mọi người đều phải đối mặt với vấn đề ‘stress’. Một lượng ít, thích hợp áp lực có thể có ích, nhưng căng thẳng quá mức về thân và tâm sẽ gây ra những vấn đề về sức khỏe. Người ta có bảy loại tâm trạng: Hạnh phúc, giận dữ, lo lắng, cô đơn, buồn bã, sợ hãi và hốt hoảng. Dưới điều kiện bình thường thì sẽ không gây ra bệnh tật nào. Tuy nhiên, cảm xúc thái quá sẽ tạo ra sự khó chịu trong cơ thể.

Trung Y tin rằng mục đích chân chính của việc giữ gìn sức khỏe là giữ cho tâm lý và thể chất được cân bằng vào mọi lúc. Một tâm trạng thoải mái vừa đủ sẽ cân bằng khí và huyết. Cảm xúc thái quá sẽ tác động tới nội tạng, gây hỗn loạn khí trong nội tạng và dẫn đến mắc bệnh.

Khi người ta cực kỳ hạnh phúc, khí ở tim của họ bị đình trệ và tâm của họ trở nên rối loạn. Tim sẽ đập nhanh, xuất hiện chứng mất ngủ và mất cân bằng về tâm thần. Nếu nghiêm trọng, họ có thể cười không ngớt và hành động không mục đích. Đó gọi là: “Hạnh phúc thái quá dẫn đến mất khí,” và “hạnh phúc thái quá làm hại tim.”

Khi người ta hoảng hốt, khí ở tim trở nên rối loạn, gây ra hoang mang, hồi hộp, mất ngủ, lo lắng và thậm chí là rối loạn tâm thần. Đó gọi là: “Lo lắng làm khí hỗn loạn.”

Khi người ta giận dữ, họ sẽ trở nên mất kiên nhẫn, đau đầu, đỏ mặt hay thậm chí ngất xỉu. Điều này có thể tác động đến tỳ vị, làm gia tăng những triệu chứng như nôn mửa và mất ngon miệng. Đây gọi là: “Tức giận làm gia tăng khí” và “giận dữ làm hại gan.”

Khi quá buồn bã, người ta sẽ mất giọng và không thể nói với khí lực sung mãn, trở nên chán nản, tức ngực, khó thở, đó gọi là “buồn bã gây ra mất khí”, “lo lắng làm xấu khí” và “buồn chán làm hại phổi.”

Khi quá sợ hãi, người ta sẽ trở nên xanh xao, hoa mắt chóng mặt hay thậm chí suy sụp. Vài người sẽ không thể kiềm chế được đường tiểu tiện. Đó gọi là “sợ hãi làm xuống khí” và “lo sợ làm hại thận.”

Khi một người bị đau đớn, chụp phim là điều cần thiết, nhưng không nên quên điều hòa cảm xúc của họ. Để trở nên mạnh khỏe, điều quan trọng nhất là phải tu tâm dưỡng tính.

Có một sự luyện tập hợp lý, một chế độ ăn uống thích hợp, và duy trì tính khí là liều thuốc lý tưởng cho một cuộc sống mạnh khỏe.

(Theo The Epoch Times)

20 tháng 12 2010

Tôn Tư Mạc (Phần 2)

Tác giả: Sơn Hành

Đạo đức nghề y và cống hiến cho y học của Tôn Tư Mạc

Tôn Tư Mạc đã bày tỏ lòng tin tưởng rằng y học là một nghệ thuật của sự nhân ái. Trong cuốn “Đại Y Tinh Thành”, ông viết: “Khi một thầy thuốc vĩ đại chữa trị cho bệnh nhân, ông ta phải tập trung, bình tĩnh, đồng thời thoát khỏi mọi dục vọng và truy cầu.”

“Người thầy thuốc cần phải có một trái tim từ bi và muốn tự mình cống hiến để chữa khỏi bệnh cho bệnh nhân. Nếu có người bệnh tật đến xin chữa trị, không nên hỏi người ta sang hay hèn, giàu hay nghèo, già hay trẻ, đẹp hay xấu, người thân hay kẻ thù, người Hán hay dân tộc thiểu số, người trí tuệ hay kẻ ngu dốt. Người thầy thuốc xem tất cả đều bình đẳng, và ông coi họ như những người thân thiết nhất…”

Ông sử dụng cách tiếp cận biện chứng để trị bệnh. Ông tin rằng nếu người bệnh biết cách tự chăm sóc và giữ gìn sức khỏe thì sẽ có thể vô bệnh. Chỉ cần “Lương y trị bệnh với các phương thuốc và châm cứu, thì bệnh nhân có thể hết bệnh, trời đất có thể tiêu tai ương”. Ông nhấn mạnh vào đạo đức nghề y và đối xử bình đẳng với mọi bệnh nhân. Ông nói: “Mạng người là quý giá nhất, ngàn lượng vàng dẫu quý, song một phương thuốc trị bệnh cho người ta còn quý hơn cả ngàn lượng vàng.”

Tôn Tư Mạc cũng cực kỳ coi trọng việc chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em. Ông đã viết các tác phẩm: “Phụ Nhân Phương” 3 quyển, “Thiếu Tiểu Anh Nhụ Phương” 2 quyển, rồi đưa vào bộ sách “Thiên Kim Yếu Phương”.

“Thiên Kim Yếu Phương” là bộ bách khoa toàn thư y học sớm nhất của Trung Quốc. Bộ sách bao gồm rất nhiều đề mục, từ cơ sở lý luận cho đến các khoa lâm sàng, từ lý thuyết cho đến phương pháp kê thuốc, bài thuốc, vị thuốc. Một phần trong cuốn sách là bộ tư liệu y học cổ.

Một phần khác trong cuốn sách là bộ bài thuốc được lưu truyền trong dân gian. Bộ sách này hấp thu tinh hoa của mọi trường phái, và được phổ biến rộng rãi cho đến tận ngày nay. Rất nhiều nội dung vẫn còn có tác dụng chỉ đạo, có giá trị học thuật cực kỳ cao, quả thật là báu vật ngàn vàng của y học Trung Quốc.

Nhờ thu thập kinh nghiệm lâm sàng từ thời Trương Trọng Cảnh cho đến thời Tôn Tư Mạc, đồng thời liệt kê từng thành tựu của các bài thuốc trong hàng trăm năm, bộ sách đã thể hiện sự uyên bác tột bậc và kỹ năng y học tinh xảo của Tôn Tư Mạc.

Người đời sau gọi “Thiên Kim Yếu Phương” là ông tổ của các sách y học.

Tôn Tư Mạc tôn sùng thuật dưỡng sinh và ông cũng tự mình thử nghiệm. Chính nhờ thông hiểu thuật dưỡng sinh mà dù đã hơn trăm tuổi, ông vẫn tai nghe mắt thấy tinh tường.

Ông lấy tư tưởng dưỡng sinh của Nho gia, Đạo gia, Phật gia và thuật dưỡng sinh của Ấn Độ đem kết hợp với lý thuyết dưỡng sinh của Trung Y. Ông đã đưa ra rất nhiều phương pháp dưỡng sinh thiết thực mà dễ thực hành, và cho đến tận ngày nay, chúng vẫn có thể chỉ đạo sinh hoạt thường ngày của con người.

Ví dụ: “Một người nên bảo trì tâm thái cân bằng, không nên cứ một mực theo đuổi danh lợi. Người ta ăn uống cần phải điều độ, không nên ăn hay uống quá nhiều. Khí huyết cần phải chú ý lưu thông, không nên lười biếng lười vận động. Sinh hoạt thường ngày cần phải ổn định, không nên trái với quy luật tự nhiên…”

Tôn Tư Mạc cũng là người đầu tiên trên thế giới phát minh ra thuật dẫn niệu. Theo ghi chép trong lịch sử, một trong số những bệnh nhân của ông không thể đi tiểu được. Thấy người bệnh cực kỳ đau đớn, Tôn Tư Mạc nghĩ: “Đã quá muộn để dùng thuốc trị bệnh cho anh ta. Nếu có cách nào đó nhét một cái ống vào niệu đạo của anh ta, nước tiểu sẽ có thể đi ra ngoài một cách tự nhiên.”

Ông thấy một đứa trẻ nhà hàng xóm đang chơi đùa bằng cách thổi một cây hành lá. Cây hành lá này rất mỏng, dài và mềm. Vậy là Tôn Tư Mạc quyết định dùng cây hành này làm một cái ống và thử nghiệm. Ông chọn một cây hành lá thích hợp, hơ nhẹ nó, cắt bỏ phần đuôi nhọn, và rồi cẩn thận đưa nó vào niệu đạo của bệnh nhân.

Rồi ông thổi nhẹ vào chiếc ống. Đúng như ông đã dự đoán, nước tiểu chảy ra theo chiếc ống. Bụng dưới sưng phồng của bệnh nhân ngày càng nhỏ lại, và cuối cùng căn bệnh đã được cứu chữa.

Tôn Tư Mạc coi trọng tu thân dưỡng tính, cả đức hạnh và y thuật của ông đều cao siêu. Ông đã trở thành một nhân vật cực kỳ vĩ đại và nổi tiếng, được giới y học và nhiều thế hệ dân chúng vô cùng kính trọng.

Xem thêm: Tôn Tư Mạc (Phần 1)

Dịch từ:

http://www.minghui.org/mh/articles/2009/12/25/215055.html
http://clearwisdom.net/html/articles/2010/1/16/113945.html



Tôn Tư Mạc (Phần 1)
Tác giả: Sơn Hành

Những kiệt tác y học lưu lại cho hậu thế của Tôn Tư Mạc

Tôn Tư Mạc, còn được gọi là Dược vương Tôn Thiên Y, là thầy thuốc nổi tiếng thời cổ đại của Trung Quốc. Ông cũng là một người ứng dụng khí công vào thuật dưỡng sinh.

Ông sinh vào thời Tây Ngụy. Tương truyền rằng ông sống đến năm 141 tuổi rồi đi tu tiên. Tôn Tư Mạc hồi nhỏ thường bị bệnh, do vậy ông đã quyết định học nghề y. Ông rất uyên bác thông hiểu kinh điển, lịch sử Trung Quốc và các học thuyết của Bách gia chư tử.

Mới lên 7 tuổi, ông đã có thể “Mỗi ngày đọc thuộc lòng 1.000 chữ”. Chính vì khả năng ghi nhớ kỳ lạ như vậy nên ông được người ta gọi là “Thánh đồng”.

Tới năm 20 tuổi, ông có thể đĩnh đạc đàm luận về học thuyết Lão Tử, Trang Tử, đồng thời cũng tinh thông việc biên soạn kinh điển Phật gia.

Vào thời Tùy Đường, Tôn Tư Mạc từ chối không ra làm quan. Đường Thái Tông Lý Thế Dân từng tự mình đích thân lên núi tiếp kiến ông.

Tôn Tư Mạc nổi danh với việc tổng kết kinh nghiệm lâm sàng và lý luận y học từ thời Đường trở về trước, từ đó biên soạn thành hai bộ kiệt tác y học: “Thiên Kim Yếu Phương” (Phương thuốc giá trị cả ngàn lượng vàng) và “Thiên Kim Dực Phương” (Phần bổ sung của ‘Thiên Kim Yếu Phương’). Bộ sách “Thiên Kim Yếu Phương” gồm 30 quyển, chia làm 232 chủ đề.

Cả đời Tôn Tư Mạc biên soạn hơn 80 bộ sách, ngoại trừ “Thiên Kim Yếu Phương” và “Thiên Kim Dực Phương” ra, còn có “Lão Tử Chú”, “Trang Tử Chú”, “Chẩm Trung Tố Thư” 1 quyển, “Hội Tam Giáo Luận” 1 quyển, “Phúc Lộc Luận” 3 quyển, “Nhiếp Sinh Chân Lục” 1 quyển, “Quy Kinh” 1 quyển cùng các tác phẩm khác.

Tôn Tư Mạc tin rằng: “Mạng người là quý giá nhất, ngàn lượng vàng dẫu quý, song một phương thuốc trị bệnh cho người ta còn quý hơn cả ngàn lượng vàng”. Thành ngữ “Thiên Kim” có nghĩa là “ngàn lượng vàng” cũng từ đó mà ra đời. Toàn bộ sách bao gồm 5.300 bài thuốc, trong đó tập hợp các phương thuốc phổ biến với nội dung rất phong phú.

Bộ sách là một kiệt tác tiêu biểu cho sự phát triển của y học đời Đường. Nó có ảnh hưởng lớn và đóng góp đáng kể cho sự phát triển của y học, nhất là các bài thuốc để lại cho hậu thế. Những kiệt tác này cũng đóng góp vào sự phát triển của y học tại Nhật Bản và Triều Tiên.

“Thiên Kim Dực Phương” cũng bao gồm 30 quyển. Tôn Tư Mạc đã viết tác phẩm này trong những năm tuổi già. Nó có quan hệ bổ sung toàn diện cho cuốn “Thiên Kim Yếu Phương”.

Ông chia cuốn “Kim Thiên Dực Phương” ra làm 189 chủ đề, bao gồm hơn 2.900 bài thuốc. Cuốn sách ghi lại 800 vị thuốc, đặc biệt chữa trị rất hiệu nghiệm cho các chứng bệnh như thương hàn, trúng phong, các bệnh vặt và chứng ung nhọt.

Dịch từ:

http://www.minghui.org/mh/articles/2009/12/25/215055.html
http://clearwisdom.net/html/articles/2010/1/16/113945.html

17 tháng 12 2010

Khám phá «Tây Du Ký» (6): Đường Tăng gặp Trấn Sơn Thái Bảo

Tác giả: Thuyền Tưởng

[Chanhkien.org]

(6) Đường Tăng gặp Trấn Sơn Thái Bảo

Đường Tăng đang lúc một mình bị thú rừng bủa vây thì gặp được Trấn Sơn Thái Bảo. Người tu luyện ngay từ lúc ban đầu là đã có nguy cơ tứ phía, quả thực không hề dễ dàng.

Đường Tăng ở nhà người ta dùng cơm, kiên quyết không dùng huân. Hiện tại ăn chay đã trở thành lệ thường trong Phật giáo. Nhưng ở đây chúng ta thấy Đường Tăng ăn chay không phải là mục đích, mà là để sang Tây Phương. Tại Phật giáo nguyên thủy huân là chỉ “hành, gừng, tỏi, ớt”, chứ không phải thịt. Về điểm này quả thực có rất nhiều người biết, sau này không hiểu sao biến thành chỉ việc ăn thịt.

Đường Tăng ở nhà họ làm pháp sự cầu siêu, vấn đề cầu siêu này đã được đề cập ở phần trước. Có một số việc mặc dù không dễ được nhận thức và chấp nhận, như báo mộng, nhưng không có nghĩa là chúng không tồn tại, có người xác thực đã từng trải qua.

Tại một số phiên bản, khi người nhà Trấn Sơn Thái Bảo thấy Đường Tăng làm pháp sự có hiệu quả, bèn khuyên Đường Tăng khỏi phải mạo hiểm đi về Tây nữa, hướng Đông hồi Trường An, làm pháp sự yên ổn như vậy là quá tốt rồi. Điều này đối với Đường Tăng là khảo nghiệm, một bên trở ngại trùng trùng, một bên ung dung thoải mái, xem ông chọn đường nào. Đối với người tu luyện, “tuyển trạch” là phi thường trọng yếu, xem có kiên định hay không.

Đường Tăng căn cơ rất tốt, một chút dụ hoặc ấy căn bản không khởi tác dụng, vẫn tiếp tục đi về Tây. Nhanh chóng đến biên giới nước Đại Đường, cũng là tiến nhập vào một giai đoạn mới. Trấn Sơn Thái Bảo chỉ có thể tiễn đến đây. Trong giới tu luyện có thể thấy là đã vượt qua tầng thứ của người thường, bắt đầu tiến nhập vào tu luyện chân chính.

Người ta thường nói về bốn thấy trò Đường Tăng, kỳ thực là sai. Mọi người đều quên mất Bạch Long Mã, đây là do Bồ Tát an bài Bạch Long biến thành. Mọi sinh mệnh đều bình đẳng, không chỉ là người, chúng sinh tất cả đều có sinh mệnh, lấy quan điểm luân hồi mà nhìn, thì hôm nay là người, đời sau có thể là động vật, hoặc thực vật, hoặc thác sinh thành tảng đá. Chúng sinh trước Pháp lý của vũ trụ đều bình đẳng như nhau, danh lợi địa vị nơi nhân gian sau này không có tác dụng gì nữa. Nghe nói rằng khi đã đạt đến tầng thứ Pháp nhãn thông, dùng công năng đặc dị mà nhìn mọi thứ thì đều có sinh mệnh, hòn đá, hay cái cây cũng đều đang sống vậy.

Lại nói về mấy thầy trò, có người cho rằng kỳ thực không phải là những cá nhân độc lập như người thường tưởng tượng, mà là các nguyên thần của một cá nhân. Như trước đã nói, tự kỷ chân chính của con người là chủ nguyên thần, nhục thân chỉ là cái y phục mà thôi. Nghe nói con người ngoài chủ nguyên thần, còn có phó nguyên thần, một người có thể không chỉ có một phó nguyên thần. Phó nguyên thần cùng chủ nguyên thần là các cá thể độc lập nhưng tương hỗ, phó nguyên thần thường minh bạch hơn chủ nguyên thần, có bản sự, nhưng đều phải nghe theo chủ nguyên thần. Người thường không cách nào tưởng tượng, thế nhưng với người tu luyện mà nói, là có lúc cảm nhận được. Người ta có khi vô ý làm được sự việc nào đó rất tốt, có thể chính là phó nguyên thần giúp đỡ.

Trong «Tây Du Ký», Tôn Ngộ Không và Bạch Long Mã được ví von thành “tâm viên ý mã”, không rõ quan hệ nhân quả giữa hai người này là thế nào. Thế nhưng có một điểm, đó là người tu luyện ắt phải chú ý đến “tâm, ý” của tự mình. Chúng rất khó khống chế, tựa như con vượn (“viên”) con ngựa (“mã”), rất khó quản thúc. Tóm lại mấu chốt trong tu luyện là trước tiên hãy quản cho tốt tư tưởng của bản thân, phải có chính tín, phải loại bỏ những tư tưởng bất hảo, đề cao cảnh giới tư tưởng của bản thân.

(*) Tây Du Ký: Tác phẩm nổi tiếng của Ngô Thừa Ân, gồm 100 hồi, nói về cuộc hành trình sang Tây Trúc thỉnh kinh của Đường Tăng. Sau khi Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung đã cùng Trư Bát Giới, Sa Ngộ Tĩnh hộ tống Đường Tăng sang Tây Phương thỉnh kinh, dọc đường đi đã hàng ma phục yêu trải qua 81 kiếp nạn, cuối cùng thành chính quả.

(còn tiếp)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/8/21/47886.html

15 tháng 12 2010

Nghệ Thuật Thần Vận






Văn hóa truyền thống: Bốn câu chuyện xưa về lòng bao dung



Ngụy Văn Hầu chấp hành hiệp ước

Vào năm 403 TCN, nước Hàn mời nước Ngụy xuất binh cùng công phá nước nước Triệu. Ngụy Văn Hầu khước từ nói rằng: “Ta cùng với nước Triệu đã kết giao làm huynh đệ, lại có hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau, nên không dám tuân mệnh”. Sứ giả nước Hàn đùng đùng tức giận rời đi.

Triệu quốc biết được chuyện này, thấy rằng nước Triệu và nước Ngụy lúc đó có tình cảm huynh đệ hữu nghị tốt đẹp, nên cũng muốn mượn quân của nước Ngụy mà thảo phạt nước Hàn. Nhưng Ngụy Văn Hầu cũng lại dùng cùng một lý do như trên mà cự tuyệt thỉnh cầu của nước Triệu. Sứ giả nước Triệu cũng tức giận hầm hầm bỏ đi.

Nhưng sau này cả hai nước khi nghĩ tới Ngụy Văn Hầu đối với nước mình có thái độ ôn hòa bình lặng, lại có lòng hữu hảo và khoan dung, đều mười phần bội phục, và trở về triều bái nước Ngụy. Nước Ngụy thế là liền bắt đầu tạo thành liên minh Ngụy Triệu Hàn và giữ vị thế đứng đầu, vì thế các nước chư hầu đều không nước nào gây hấn với nước Ngụy.

Đường Tuy thuyết phục Tín Lăng Quân

Tín Lăng Quân đánh bại quân Tần, cứu được Hàm Đan, bảo toàn được nước Triệu, cho nên Triệu Vương tự mình thân chinh đến vùng ngoại ô nghênh đón ông. Đường Tuy bảo Tín Lăng Quân rằng: “Tôi từng nghe người ta nói: có chuyện không thể biết, có chuyện không thể không biết; có chuyện không thể quên, có chuyện lại không thể không quên”.

Tín Lăng Quân hỏi: “Như vậy ý tứ là thế nào?”

Đường Tuy trả lời: “Người ta căm hận ta, việc như thế này không thể không biết, nếu ta phụ lòng người khác, như thế ta cần phải tìm cách bồi thường cho họ. Căm giận người ta, tâm thái như thế thì không nên có, cần dùng lòng khoan thứ mà hóa giải. Nhưng trong lúc hóa giải, không nên đồn đại khắp nơi mà mang đến cho người khác sự quấy nhiễu và khẩn trương. Người ta có ân đức với mình, việc như thế không thể quên, cần cảm ơn báo đáp. Mình có ân đức với người ta, việc như thế không thể không quên, nếu không sẽ làm chính mình và người ta phải chịu áp lực lớn. Bây giờ ông đã đánh bại quân Tần, cứu được Hàm Đan, bảo toàn được nước Triệu, đó là ân đức rất lớn đối với họ! Triệu Vương tự mình đến ngoại ô nghênh đón ông, gặp Triệu Vương, chỉ mong ông quên cái ân đức của mình đi!”

Tín Lăng Quân nói: “Tôi nhất định cẩn thận nghe theo lời Ngài dạy bảo!” (chuyện trong “Chiến Quốc sách”)

Làm như không biết, không tố nhà thông gia

Quách Tử Nghi dẹp xong loạn An Sử, trở thành người có công lớn phục hưng gia thất nhà Đường. Đường Đại Tông hết sức kính trọng Quách Tử Nghi, gả con gái là công chúa Thăng Bình cho con trai Quách Ái của Quách Tử Nghi.

Có một lần hai trẻ cãi cọ nhau, Quách Ái thấy vợ tỏ ra vẻ kiêu căng ngạo mạn của một công chúa, phẫn uất bất bình nói: “Cô có gì đặc biệt hơn người chứ? Chẳng phải là ỷ vào cha cô Thiên tử ư? Bảo cho cô biết, giang sơn của phụ hoàng cô là do cha ta đánh bại An Lộc Sơn mà bảo toàn lại đó. Cha ta bởi xem thường ngai vàng của Hoàng đế, nếu không đã chẳng có Hoàng đế này đâu!”.

Công chúa Thăng Bình nghe Quách Ái nói loạn như thế, tức khí nổi lên lập tức hồi cung bẩm báo Hoàng thượng.

Đường Đại Tông nghe con gái khiếu nại xong, thản nhiên nói:“Con còn nhỏ dại, có rất nhiều chuyện con chưa hiểu. Trượng phu của con nói đều là thật tình cả. Thiên hạ là do cha chồng của con Quách Tử Nghi bảo toàn lại đó. Nếu cha chồng con muốn làm Hoàng đế, thì đã sớm lên làm rồi, thiên hạ cũng không phải là của gia đình họ Lý chúng ta”. Ông khuyên con gái không nên bắt bẻ chồng, chụp loạn cái mũ lớn “mưu phản” lên người khác, cần phải sống hòa thuận tốt đẹp. Được Đường Thái Tông an ủi, công chúa hết giận, chủ động trở lại nhà họ Quách.

Sau khi Quách Tử Nghi biết chuyện, rất sợ hãi, nghe nói con trai khẩu xuất cuồng ngôn, gần như mưu phản, lập tức sai người bắt trói Quách Ái vào cung bái kiến Hoàng thượng, xin Hoàng đế trị tội.

Thế nhưng, Đường Đại Tông lại vui vẻ hòa nhã, không hề có ý trách tội, ngược lại còn an ủi Quách Tử Nghi: “Hai trẻ cãi nhau, có lỡ lời một chút, chúng ta già cả rồi không nên cho đó là thật, chẳng phải tục ngữ có câu: “Giả câm giả điếc, không tố gia ông”ư? Làm như không nghe thấy gì là được rồi”.

Quách Tử Nghi nghe xong, trong lòng như gỡ bỏ được tảng đá nặng, cảm thấy vô cùng vui vẻ (chuyện ghi trong sách “Tư trì thông giám”).

Chỗ hay chỗ dở đều là sự thật

Vào thời Bắc triều, tại nước Tề, Thôi La giữ chức tả Thừa tướng, rất được Hoàng đế kính trọng và lễ ngộ.

Thôi La rất thích tiến cử nhân tài. Ông đề cử Hình Thiệu với Thế Tông đảm nhiệm việc phụ tá phủ Thừa tướng, kiêm quản lý việc chính trị cơ mật. Thế Tông nghe lời Thôi La đề cử, bèn bổ nhiệm Hình Thiệu. Hình Thiệu quả nhiên rất được Thế Tông tin cậy và coi trọng.

Hình Thiệu bởi kiêm quản việc chính trị cơ mật, cho nên có cơ hội gần gũi với Thế Tông. Lúc nói chuyện Hình Thiệu thường hay gièm pha nói xấu Thôi La, đến nỗi làm cho Thế Tông mất vui.

Có một hôm, Thế Tông bảo Thôi La: “Khanh luôn kể những điều hay tốt của Hình Thiệu, mà Hình Thiệu lại chuyên nói xấu khanh, khanh quả thực là ngốc!”

Thôi La độ lượng nói: “Hình Thiệu kể ra những nhược điểm của thần, thần nói đến những chỗ hay của Hình Thiệu, hai người nói đều là sự thật, không có gì sai cả!”

Thôi La khoan khoan dung đối đãi với người khác, đối với bản thân thì nghiêm khắc, ông không chỉ biết chắc được sở trường của người khác, bao dung những chỗ thiếu sót của người khác, mà còn thản nhiên đối mặt với những điều chưa tốt của chính bản thân, đó là phong thái vô cùng khoan dung độ lượng! (chuyện trong “Bắc Tề Thư”)

Người xưa có câu: “Hữu dung nãi đại, vô dục tắc cương”, nghĩa là “có lòng bao dung to lớn, không muốn lại được”. Bao dung là một phong thái phi phàm, là một tấm lòng bao la, là một cảnh giới tràn ngập lòng nhân ái và vô tư. Đó cũng là truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân loại.

Trí Chân
(Theo MinhHue.net)

Hồi tưởng Sư phụ Lý truyền Pháp tại Tề Tề Cáp Nhĩ Bản để in

Hồi tưởng Sư phụ Lý truyền Pháp tại Tề Tề Cáp Nhĩ
http://chanhkien.org/10015.html



Khám phá «Tây Du Ký» (4): Vua Đường phái Đường Tăng đi thỉnh kinh (II)

Tác giả: Thuyền Tưởng

[Chanhkien.org]

Vua Đường phái Đường Tăng đi thỉnh kinh

Tiếp theo nói về lý do Vua Đường phái Đường Tăng đi thỉnh kinh.

Kỳ thực việc này hết thảy đều bắt nguồn từ thầy tướng số Viên Thủ Thành, cháu của Viên Thiên Cang. Viên Thiên Cang là một danh nhân trong lịch sử Trung Quốc, ông cùng Lý Thuần Phong là đồng tác giả của dự ngôn nổi tiếng «Thôi Bối Đồ» (đồ hình đẩy lưng), dự đoán đúng rất nhiều sự kiện trọng đại trong lịch sử Trung Quốc. Ông cho Vua Đường biết trước rằng sau này ở hậu cung sẽ có một phụ nữ họ Võ soán lấy thiên hạ của nhà họ Lý (ám chỉ Võ Tắc Thiên). Đường Thái Tông Lý Thế Dân vì thế mà định diệt sạch hậu cung đề trừ hậu họa. Nhưng nhờ Viên Thiên Cang khuyên giải, bởi Thiên Ý đã như vậy, nếu hiện tại giết người thì tương lai người này vẫn chuyển sinh vào cung, lúc ấy sát tâm còn nặng hơn; bằng như không giết, đến khi già người này động tâm trắc ẩn. Do vậy cuối cùng Đường Thái Tông mới bỏ qua.

Nhân tiện bình luận một chút về tướng số. Hiện tại nhiều người thấy thích thú với tướng số, đều hy vọng liễu giải được tương lai của bản thân. Kỳ thực sau khi xem bói rồi, thì trong tâm đã lặng lẽ thừa nhận số mệnh. Mọi người nghĩ xem, như thế nếu vận mệnh là không cố định, tùy cơ thay đổi, thì làm sao có thể bói ra được? Chỉ cần bói ra được, thì khẳng định là có thứ tồn tại mang tính quy luật, cũng chính là số mệnh. Tôn Ngộ Không có thể biết được sự việc 500 năm trước và 500 năm sau, trực tiếp nhìn thấy, so với toán mệnh thì lợi hại hơn rất nhiều. Tại giới khí công thì đó là một loại công năng gọi là túc mệnh thông, trong Phật giáo thì có thể đối ứng với tầng thứ Pháp nhãn thông.

Có nhiều người dùng cách bói mệnh bằng Kinh Dịch. Trong «Chu Dịch» Chu Hy giảng như sau: “Thiên Địa hợp tức là Đức, Nhật Nguyệt hợp tức là minh, bốn mùa hợp tức là trình tự, quỷ thần hợp tức là cát hung, sau đó có thể hiểu được Dịch.” Vì thế người bói được chuẩn xác, tất nhiên đều có một chút chỗ đặc thù, không thể giải thích Dịch lý trên bề mặt được. Lý luận về Bát Quái này, vẫn còn trực tiếp chỉ dẫn phương hướng nghiên cứu của các nhà khoa học. Nhà khoa học chân chính, là không sợ đối diện với thách thức, chỉ có những người bảo thủ hẹp hòi mới gộp chung lại mà nói thành “mê tín”, rồi chụp lên cái mũ “phong kiến”.

Tại Hồi 10 «Tây Du Ký», “Long Vương phạm tội Thiên Tào, Ngụy Trưng gửi thư Âm Phủ”, Long Vương lên bờ giả Tú Tài áo trắng cùng thầy toán mệnh Viên Thủ Thành đánh cược xem hôm sau mưa vào giờ nào, nước dâng lên mấy thước mấy tấc. Viên Thủ Thành nói: “Giờ Thìn kéo mây, giờ Tỵ nổi sấm, giờ Ngọ đổ mưa, cuối giờ Mùi tạnh. Nước dâng lên cao ba thước ba tấc có thể bốn mươi tám giọt bốn phân bốn ly”. Tú Tài áo trắng (Long Vương) nói: “Nếu quả thực như lời đoán thì ta thưởng bạc năm chục lượng chẳng sai. Nếu không mưa, hoặc mưa không như lời đoán, thì ta phá nát cửa thầy, xé tấm vải treo, tức thì đuổi khỏi chợ Trường An, không cho ở đây gạt dân chúng nữa”. Sau đó Long Vương cố tình không tuân thủ ý chỉ ban mưa ban gió của thiên đình, cắt giảm lượng mưa, phạm phải luật Trời, kết quả bị thiên đình hạ chiếu lệnh thừa tướng Ngụy Trưng xử trảm vào giờ Ngọ. Vậy mới thấy hết thảy hiện tượng tự nhiên trong nhân gian cũng không hẳn đều là tự nhiên, chẳng qua chỉ là người ta không biết mà thôi.

Kế đó Viên Thủ Thành chỉ cho Long Vương một con đường sống, đó là cầu xin Đường Thái Tông ngăn cản quan chấp hình Ngụy Trưng. Đường Thái Tông sau đó nhận lời và giúp Long Vương bằng cách gọi Ngụy Trưng đến chơi cờ vào đúng giờ Ngọ để cầm chân. Thế mà Long Vương vẫn bị Ngụy Trưng xuất hồn trảm trong mộng khi ông ngủ thiếp đi trong lúc đánh cờ. Vậy mới thấy “mộng” này cũng không phải là đơn giản, có loại mộng (không phải tất cả) mà giới tu luyện gọi là “Thần du” cũng tương tự như vậy.

Bởi vậy Long Vương ở dưới âm phủ kiện Đường Thái Tông, sau đó dẫn tới một đoạn “Vua Đường du địa phủ”. Trong đoạn này giới thiệu đại khái về tình trạng tại Âm Tào địa phủ, hình tượng phi thường. Kỳ thực trong tôn giáo giảng luân hồi, cũng có miêu tả tương tự, trong nhiều cố sự, đặc biệt tại dân gian đều lưu truyền những câu chuyện miêu tả về âm gian và quỷ. Thực ra điều này trong giới tu luyện hoàn toàn không có gì là mới mẻ, là sự việc rất bình thường, đều là tồn tại vật chất, không đáng để thảo luận. Trong «Tây Du Ký» có nói về quan hệ chuyển hoán nhân quả giữa dương gian và âm phủ, rất đáng để người ta suy ngẫm.

Trong đó có nói về lai lịch các môn thần dưới địa phủ trong phong tục truyền thống Trung Quốc. Trước đây các môn thần này là hoàn toàn hiệu nghiệm, hiện nay có lẽ không nên bàn đến.

Vua Đường sau khi từ âm phủ trở về, hạ lệnh mở pháp hội cầu siêu. Ở đây có thể nói một chút về vấn đề cầu siêu này, kỳ thực chính là siêu độ cho những sinh mệnh bị chết mà chưa đi hết tiến trình sinh mệnh thiên định. Bởi vậy các chính giáo xưa nay đều nhấn mạnh rằng không được sát sinh, hơn nữa còn cực kỳ nghiêm khắc. Những sinh mệnh bị giết nếu như không được cấp siêu độ, thì chính là cái gọi là “cô hồn dã quỷ”, chịu đựng thống khổ phi thường, cũng thù hận phi thường đối với người sát sinh, về sau sẽ mang ác báo rất lớn cho người sát sinh. Nếu giáo phái nào đó cổ vũ sát sinh, hoặc nói có thể sát sinh với một số điều kiện nhất định, thì chắc chắn chúng đều là tà, không phải bàn cãi. Nếu như sát sinh tạo oan nghiệt rất lớn như vậy, thì bị báo ứng không chỉ là người trực tiếp sát sinh, mà cả người xúi giục nữa. Coi mạng người như cỏ rác thì tất chịu ác báo.

Tiếp đó Quan Âm Bồ Tát chỉ điểm Kim Thiền Tử (Đường Tăng) đi thỉnh kinh. Ở đây có không ít vấn đề đáng nói.

Phật gia giảng luân hồi chuyển thế, Đường Tăng chính là Kim Thiền Tử đầu thai. Về phương diện này trong Hồi 11, “Xuống Âm Phủ, Thái Tông hoàn sinh; Đi dâng dưa, Lưu Toàn gặp vợ” cũng đã nói rõ. Giới khoa học trong và ngoài nước đối với hiện tượng “cận tử” cũng đã làm rất nhiều nghiên cứu, rất nhiều người gặp đại nạn mà không chết đều kể lại rằng họ ở trong một trạng thái “thể nghiệm cận tử”, đều là cơ bản giống nhau, gần giống với miêu tả trong các câu chuyện xưa. Mà luân hồi này không chỉ là luân hồi của người, miễn là sinh mệnh nội trong Tam Giới, bao gồm cả Thần, quỷ đều bị luân hồi. Vì thế Phật gia giảng phải nhảy ra ngoài Tam Giới mới thực sự thoát khỏi bể khổ, không bị luân hồi nữa, đại tự tại một cách chân chính.

Quan Âm Bồ Tát bán cà sa và pháp trượng, người vô duyên bán 7.000 lượng, người hữu duyên có thể cho không. Cả Phật và Đạo kỳ thực đều giảng về duyên phận. Bởi thế mới nói Phật độ người hữu duyên. Loại duyên phận này trong luân hồi chuyển thế bao đời mà phát sinh biến hóa. Chỉ cần trong người ta còn có Phật tính, còn có niệm đầu hướng thiện, thì là vẫn còn có cơ hội. Như cố sự nọ, Phật Như Lai thấy có người ở địa ngục kêu cứu mạng, người này khi còn sống từng cứu một con nhện, thế là bèn bám một sợi tơ nhện mà đi lên. Đây chính là thể hiện của duyên phận. Duyên cũng có thiện duyên và ác duyên. Kỳ thực những sự tình giữa người với người thì cũng chì là nhân quả luân báo mà thôi.

Tiểu thừa Phật giáo tu La Hán, chỉ tín ngưỡng Phật Thích Ca Mâu Ni, cầu giải thoát tự thân; Đại thừa Phật giáo mục tiêu cao hơn, hơn nữa là tín ngưỡng đa Phật. Đây không phải là nói Đại thừa tốt hơn Tiểu thừa. Chỉ cần tu thành chính quả thì đều là tốt. Nếu không, dù tin theo Đại thừa Phật giáo mà không đạt yêu cầu thì tu cũng không cao. Phật giáo phát triển cho đến hôm nay, quả thực đã rất biến dị. Tôn giáo này đã trở nên thế tục, bị chính trị hóa, chứ không dạy người ta tu luyện, ngay cả khuyên người hướng thiện cũng là rất khó. Thật là đáng buồn! Sự bại hoại của Phật giáo trong thời kỳ mạt pháp thực ra đã sớm được nói rõ, đó là trong đoạn đối thoại giữa Phật Thích Ca Mâu Ni và ma.

Quan Âm Bồ Tát hiển tướng trước đám người của Vua Đường, thực ra tình huống này là rất hiếm. Bởi vì Thần cho rằng thông thường con người không xứng nhìn thấy Thần, chỉ có những người rất đặc biệt, căn cơ rất tốt, đang trong tu luyện, hoặc người có lai lịch đặc biệt mới có thể nhìn được một chút. Vì thế đại đa số người ta đều không nhìn thấy. Nhiều người không tin Thần nói, cho tôi thấy thì tôi mới tin. Kỳ thực đây là tư tưởng khó đổi của bản thân, nếu không chuộc tội của bản thân, thì không xứng nhìn thấy Thần. Kết quả ngày càng nhiều người như vậy, càng nhiều người không nhìn thấy, càng bất ngộ, càng không tin, tiến nhập vào một trạng thái tuần hoàn ác tính. Loại người này vẫn tự cho mình là đúng, kỳ thực là rất đáng thương.

Trong «Tây Du Ký», các sự việc này mới chỉ là khởi đầu. Phần đầu chỉ là giới thiệu bối cảnh, tiền đề giả thiết và điều kiện hạn chế. Trong số các sự kiện này thì Đường Tăng chỉ là người thừa hành, tự ông không hề biết toàn bộ quá trình an bài, đây là kế hoạch của Phật Như Lai và Quan Âm Bồ Tát. Người tu luyện chân chính thì đều là thượng sư an bài con đường tu luyện, tự người tu luyện thì là phải thực hiện mà không truy cầu.

(*) Tây Du Ký: Tác phẩm nổi tiếng của Ngô Thừa Ân, gồm 100 hồi, nói về cuộc hành trình sang Tây Trúc thỉnh kinh của Đường Tăng. Sau khi Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung đã cùng Trư Bát Giới, Sa Ngộ Tĩnh hộ tống Đường Tăng sang Tây Phương thỉnh kinh, dọc đường đi đã hàng ma phục yêu trải qua 81 kiếp nạn, cuối cùng thành chính quả.

(Còn tiếp)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/8/19/47800.html

11 tháng 12 2010

Đức tính lắng nghe

Ngày xưa, một nước nhỏ nọ phái một sứ thần đến Trung Quốc và dâng lên ba bức tượng tạc hình người bằng vàng giống hệt nhau. Hoàng đế Trung Quốc rất lấy làm hài lòng. Nhưng vị sứ giả kia lòng dạ không tốt, ông ta đặt ra một câu hỏi: “Bức tượng nào là đáng giá nhất?”. Nếu các viên quan trong triều không đưa ra được câu trả lời đúng, ông ta sẽ lấy lại ba bức tượng và điều đó chẳng khác nào một sự sỉ nhục với hoàng đế và các quan lại Trung Quốc.

Hoàng đế thử nhiều cách khác nhau, ông cho thợ kim hoàn kiểm tra cả ba bức tượng, nhưng trọng lượng và cách chạm khắc của chúng lại giống nhau như hệt. Phải làm sao đây? Thật khó xử khi một nước lớn lại không thể tìm ra một điều nhỏ nhặt như vậy. Cuối cùng, một vị quan nguyên lão nói rằng ông có một cách để nhận ra bức tượng đáng giá nhất.

Viên sứ thần và các viên quan khác được mời đến hoàng cung để cùng chứng kiến. Vị lão quan cầm trên tay ba cọng rơm, ông nhét một cọng rơm vào tai của bức tượng hình người đầu tiên, cọng rơm liền xuyên sang bên tai kia. Rồi ông thử với bức tượng thứ hai, ông cũng xuyên cọng rơm vào tai bức tượng, lần này cọng rơm xuyên ra ngoài miệng của bức tượng. Cuối cùng ông xuyên cọng rơm vào bức tượng hứ ba, cọng rơm rơi xuống bụng của bức tượng mà không phát ra tiếng động nào. Vị lão quan quả quyết nói: “Bức tượng cuối cùng là đáng giá nhất”.

Nếu chúng ta nhìn vào ba bức tượng và các đặc điểm của chúng rồi so sánh, bức tượng đầu tiên mà cọng rơm xuyên vào tai này rồi chui sang tai kia gợi nhớ đến câu thành ngữ cổ: “Vào tai này ra tai khác”, điều đó làm giảm giá trị của bức tượng đầu tiên, cho thấy đây là một người không biết lắng nghe. Bức tượng thứ hai tượng trưng cho những người thích ngồi lê đôi mách, khi họ nghe được thông tin nào đó, nó sẽ tuôn ra từ miệng của họ đến người tiếp theo. Bức tượng thứ ba thể hiện một người cao quý, khi nghe được điều gì đó, họ giữ nó trong lòng mà không kể lể với người khác.

Câu chuyện này nói với chúng ta rằng, người đáng quý nhất không nhất thiết là một người giỏi ăn nói. Chúa trời cho chúng ta hai cái tai và một cái miệng vì Ngài muốn chúng ta nói ít hơn và nghe nhiều hơn. Làm một người biết lắng nghe, đó là phẩm chất cơ bản nhất của một con người chín chắn.

Faye Zhou
(Theo Secret China)

10 tháng 12 2010

Vẻ đẹp của nàng Dae Jang Geum

Tác giả: Một học viên Đại Pháp tại Đại Lục

[Chanhkien.org] Lời ban biên tập: Bài viết này tập trung thảo luận về nhân vật chính với đạo đức sáng ngời trong chuỗi phim truyền hình Hàn Quốc, người đã vượt qua vô số khó nạn trong cuộc sống để trở thành đầu bếp chính trong cung Vua, và cuối cùng trở thành một ngự y nữ chưa từng có tiền lệ. Bộ phim truyền hình này thường được biết đến với cái tên “Nàng Dae Jang Geum.”

“Nàng Dae Jang Geum”, được chiếu trên truyền hình Trung Quốc trong một thời gian lâu như vậy, nhưng tôi không hề xem. Người ta đánh giá rất cao bộ phim này, nên có một quãng thời gian bỗng nhiên tôi muốn theo dõi thử xem sao, thì thấy rằng quả thực cũng có nội hàm sâu sắc, nhân đây cũng tùy hứng mà bàn luận một chút.

Jang Geum, nhân vật chính trong phim, có một đức tính kiên nhẫn tới mức đáng kinh ngạc. Cô luôn luôn có dáng vẻ thật điềm tĩnh. Bất kể phải chịu đựng như thế nào, hay vinh quang ra sao, cô vẫn có dáng vẻ rất bình hòa. Rất khó để một người bình thường làm được như vậy, và đây cũng là điểm hấp dẫn nhất của cô. Để phản ánh sự bình hòa này, hay đặc điểm nổi bật của bộ phim, tất cả nhân vật trong phim, cả chính diện lẫn phản diện, cả thiện lẫn ác, đều được xây dựng với tính cách hết sức nhu hòa. Do vậy, người ta rất dễ dàng tiếp nhận bộ phim. Có lẽ đây là một cảnh giới tâm tính khá cao. Dù phải đối mặt với ai hay vấn đề gì, chúng ta cũng nên bình thản và hòa nhã. Khi bị kích động thì thường người ta hay giận dữ và mất lý trí. Do vậy, trạng thái “bình hòa” là đặc điểm nổi trội của bộ phim này.

Có hai văn hóa nổi bật trong bộ phim. Thứ nhất là văn hóa ẩm thực trong cung đình Hàn Quốc, thứ hai là văn hóa Trung Y, hay y học truyền thống Trung Quốc. Cả hai văn hóa này đều có nội hàm và khiến tôi có ấn tượng sâu sắc. Lúc ban đầu khi Jang Geum còn là cung nữ, cô cố gắng chuẩn bị những món ăn ngon nhất, không hề mang theo tạp niệm, mà chỉ có ý muốn làm những món ngon nhất để giúp ích cho mọi người mà thôi. Cô thường tìm tòi khám phá những nguyên liệu để làm ra các loại thức ăn vừa ngon vừa bổ dưỡng. Phó xuất thì nhiều mà đắc được thì ít, đó là những gì chúng ta thấy được từ cô. Khi cố gắng học Trung Y, cô đã phải chịu khổ không ít. Ở Hàn Quốc cổ đại hay Triều Tiên, y học của họ đều là học từ Trung Y, từ phương thức chẩn đoán xem bệnh trở đi cũng đều theo mô thức của Trung Y, ở đây chúng ta thấy một nền văn hóa Trung Y truyền thống. Để chẩn bệnh thì Trung Y có bắt mạch, chẩn ngũ sắc, luận thương hàn, v.v. đều là những thứ của Trung Y, quả thực rộng lớn bao la, bao gồm rất nhiều thứ. Tôi nghĩ rằng Tây Y hiện tại vẫn chưa theo kịp được với chuẩn mực cao của Trung Y.

Cuối cùng, để bàn luận về vận mệnh được an bài cho Jang Geum, tôi thấy rằng rất là viên mãn. Trong bộ phim, vận mệnh như đùa giỡn với Jang Geum. Cuộc đời của Jang Geum có những bước chuyển biến rất lớn, cô là trung tâm của những cuộc đấu tranh quyền lực trong cung đình, và từ một nhân vật phụ trở thành nhân vật chính. Tại sao vậy? Bởi vì Jang Geum kiên trì niềm tin vào chính nghĩa. Khi còn là cung nữ chuẩn bị món ăn, cô chỉ có một niềm tin chính nghĩa là làm việc vì người khác, một lòng trị bệnh cứu người. Nhưng tại sao Jang Geum lại phải đối mặt với nhiều khổ nạn đến như vậy? Đó là vì khi bạn là “chính”, thì cũng là lúc mà “tà” xuất đầu lộ diện, tà ác sợ nhất chính là “chính”, đương nhiên tìm trăm phương ngàn kế bức hại bạn. Đây chính là hiện thực của xã hội nhân loại, là biểu hiện của sự đối lập. Ở đâu có tốt thì cũng có xấu, có chính nghĩa thì nhất định cũng xuất hiện tà ác, đối đãi với chúng như thế nào, đây chính là xã hội nhân loại. Thuyết Tương Đối của Enstein chính là thể hiện điều này, phép biện chứng của Socrates cũng vậy, lý luận về mâu thuẫn của Hegel cũng vậy, đều là chỉ cùng một sự việc. Tất nhiên đây là những triết học về nhân sinh, người có tâm hồn tinh tế thì có thể cảm nhận được tính tương đồng trong các sự vật. Nói xa hơn nữa, “tương sinh tương khắc” là pháp tắc cơ bản của thế giới chúng ta. Thể hiện ra, thì là những sự việc hết sức bình thường.

Nhân loại chính là “thiện ác lưỡng tính”, nhưng chỉ có tính lương thiện, hay Phật tính mới là bản tính nguyên lai của con người ta, là tự kỷ chân chính. Vì sao có quá nhiều người đứng về phía Jang Geum và bị cảm động sâu sắc bởi cô? Bất kể có lý giải từ góc độ nào đi nữa, thì vẫn là sự lương thiện của Jang Geum làm cảm động tâm hồn người ta. Nếu như người ta chọn “ác”, lựa chọn theo tà ác, thì hậu quả thật là bi thảm.

Tuy nhiên ngày nay nhiều người không tin vào “thiện ác hữu báo” do sự ảnh hưởng của thuyết vô thần. Như người ta thường nói là con người đang đi lên cao hơn, nhưng đó chỉ là thăng tiến về mặt vật chất, giành được nhiều quyền lực hơn, theo đuổi nhiều dục vọng hơn. Đây thực ra là con đường ngược, thực sự khiến nhân tâm biến thành rất xấu. Nếu như con người vẫn cứ cố chấp theo đuổi những thứ này, không từ một thủ đoạn nào, như thế sẽ khiến xã hội trở nên rất bại hoại. Con người trở nên rất xấu, đây là trạng thái hiện tại của xã hội nhân loại, chẳng phải quá nguy hiểm hay sao? Để đưa con người thăng hoa lên cao hơn, thời cổ đại có hàm nghĩa là gì? Chính là cảnh giới của đời người, là sự tu dưỡng phẩm chất đạo đức để thăng hoa lên cao. Hiện tại bao nhiêu người có thể lý giải được điều này? Bất kể là Nho gia, Đạo gia, hay Phật giáo đi nữa, đều là dạy người ta trở nên tốt hơn, phản bổn quy chân, trở thành chính nhân quân tử, chẳng phải đây là đạo lý chân chính mà con người nên theo hay sao? Tiếc là ngày nay con người hiện đại lại bỏ qua những điều này. Văn hóa trở nên đồi phế, văn hóa truyền thống bị phá hoại đến nỗi người đời sau không còn nhận ra được nữa. Văn hóa đồi phế là điều đáng tiếc, đáng buồn nhất của nhân loại hiện đại chúng ta.

Câu chuyện về nàng Dae Jang Geum có thể mang đến cho con người hiện đại chúng ta điều gì? Tự mỗi người chúng ta cần phải suy xét thật sâu sắc.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/9/8/48025.html
http://www.pureinsight.org/node/4894

Khám phá «Tây Du Ký» (2): Định hải thần châm

ác giả: Thuyền Tưởng

[Chanhkien.org]

(2) Định hải thần châm

Sau khi đánh bại Hỗn Thế Ma Vương, Thạch Hầu (khỉ đá, hay Tôn Ngộ Không) hưởng những ngày vui vẻ khoái lạc tại Hoa Quả Sơn, có điều Thạch Hầu căn cơ rất cao, phát hiện thấy đao thương dùng không tốt, vì vậy đã tới Long Cung kiếm “định hải thần châm” (gậy Như Ý).

Định hải thần châm này không phải là tầm thường, trước hết hãy giải thích về chữ “định”. Người tu luyện Phật gia và Đạo gia, đều nhấn mạnh vào chữ “định”. Gọi là “định năng sinh huệ”, hay là “từ định có thể sinh huệ”. Kỳ thực, chúng ta ngày nay thường dùng cụm từ “nhất định”, “nhất định có thể…” trong đời sống hàng ngày, nguyên do là vì người tu luyện thì phải có thể nhập định. Đao thương thì cũng tương tự như công phu ngoại gia, không thể giải quyết vấn đề căn bản. Thạch Hầu kiếm báu vật ở Long Cung, thực ra là giải quyết vấn đề căn bản về mặt phương pháp, kết quả tìm được Pháp bảo là “định”. Trong tĩnh công của khí công, thì chính là đả tọa, nhập định, “định hải thần châm” này sau là vũ khí chủ yếu để hàng yêu phục ma, cũng chính là lấy “định” để ức chế các chủng can nhiễu trong tu luyện. Rèn luyện thể dục hiện nay, là rèn luyện trong vận động, khí chạy dưới da, chỉ có thể đạt được cường tráng ở bề mặt, mà không thể giải quyết vấn đề căn bản của người ta. Khí công là tu luyện trong tĩnh, khí nhập đan điền, chỉ có vậy mới có thể giải quyết vấn đề căn bản. Những kỳ tích như “trường sinh bất lão”, “cải lão hoàn đồng”, đều là thông qua “tĩnh” mà sản sinh ra vậy.

Nhân đây lại nói, khi bàn về Thần, Phật, người ta cần phải có tâm kính trọng. Hiện tại nhiều người đốt hương bái Phật, cho dù họ có mục đích gì đi nữa, thì rốt cuộc cũng là theo hình thức ấy mà thể hiện sự kính trọng đối với chư Phật. Tuy nhiên hiện tại có xu hướng cũng giống như thời Mao, chính là con đường nhầm lẫn, phỉ báng Phật, phỉ báng Đạo. Không sợ Thần, cũng không tin nhân quả luân báo, dám làm điều xấu. Phát triển tiếp nữa trở thành không điều ác nào mà không làm, đó chính là rất nguy hiểm vậy. Do đó hy vọng mọi người sau này khi bàn về Phật, Đạo, Thần thì cố gắng giữ sự kính trọng tối đa.

Đúng vậy, hiện tại có người coi Thần cũng đồng như người, viện lý do “nhân tính hóa, hiện thực hóa”. Cũng giống như thời Mao, vậy thì nói gì đến kính Thần đây? Thần có thể nào giống như người không? Thần là cao hơn hẳn nhân tính, nếu không thì chính là phỉ báng Thần. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ đó.

Nếu như Thần là cao hơn hẳn người như vậy, thì có dùng quan niệm con người nào đi nữa cũng đều không thể tưởng tượng ra Thần được. Phật Pháp ở cao tầng thì con người không dễ lý giải và tiếp thu, con người ta chỉ dễ dàng tiếp thu đạo lý ở tầng thấp mà thôi.

Ôm giữ nhận thức sai lầm mà bái Phật, thì Phật có thể trông nom người đó không? Đây thực ra là sự việc hết sức nghiêm túc. Nhìn thấy rất nhiều người như vậy đến chùa thắp hương bái Phật, tôi cảm thấy họ thực sự đáng thương, thực ra chính họ cũng không biết là mình đang làm gì nữa.

(*) Tây Du Ký: Tác phẩm nổi tiếng của Ngô Thừa Ân, gồm 100 hồi, nói về cuộc hành trình sang Tây Trúc thỉnh kinh của Đường Tăng. Sau khi Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung đã cùng Trư Bát Giới, Sa Ngộ Tĩnh hộ tống Đường Tăng sang Tây Phương thỉnh kinh, dọc đường đi đã hàng ma phục yêu trải qua 81 kiếp nạn, cuối cùng thành chính quả.

(còn tiếp)

01 tháng 12 2010

Chuyện cổ Phật gia: Ma Ha Lư “ngu ngốc”

Tác giả: Quả Chính

[Chanhkien.org] Xưa tại nước Ma La ở Ấn Độ cổ, cách đô thành ước chừng sáu, bảy lý là một tịnh xá, có khoảng 500 người xuất gia, họ đều là thầy tu giữ giới luật Phật giáo, trong đó có một người khá nhiều tuổi, tên là Ma Ha Lư. Ông nổi tiếng ngốc nghếch, vô luận chỉ bảo như thế nào cũng đều không được, thậm chí một câu kệ ngữ cũng chẳng thể đọc thuộc. Vì vậy trong số 500 thầy tu, mọi người đều coi thường ông, cũng không có nguyện ý ở cùng ông, cho nên ông luôn luôn cô độc.

Một ngày nọ, quốc vương phái sứ giả đến tịnh xá, yêu cầu các thầy tu đi phụng dưỡng, riêng Ma Ha Lư ngốc nghếch xấu hổ cảm thấy mình là đần độn, không dám tham gia cuộc tập hợp các tăng nhân của quốc vương. Đến khi mọi người đều rời đi, thì ông là người duy nhất còn ở lại, tự cảm thấy khổ sở bèn đi tìm một sợi dây, tới một cây cổ thụ định tự vẫn. Đúng lúc này, Đức Phật trang nghiêm trên bảo tượng bỗng hiện ra trước mặt ông, nghiêm túc quở trách ông, nói: “Hỡi Ma Ha Lư! Con không nỗ lực chịu khó tinh tiến, tìm ra chỗ không đủ tốt của bản thân, trái lại làm ra chuyện càng ngu ngốc hơn nữa?” Đức Phật dừng lại một chút rồi nói tiếp: “Con vốn dĩ kiếp trước là một người tu Đạo học vấn uyên bác, nhưng vì lúc ấy không chịu chỉ bảo người khác, sinh khởi tâm ngạo mạn, coi thường người khác, cho nên kiếp này phải chịu báo ứng là bị đần độn. Con không thể trách móc người khác đâu, tự mình làm sai gây chuyện, tự mình cần phải sám hối thật sâu sắc, nếu không thì chẳng thể chấm dứt tội nghiệp được.”

Ma Ha Lư sau khi được Đức Phật điểm hóa cảm thấy vô cùng xấu hổ, quỳ gối trước mặt Đức Phật sám hối. Đức Phật rất từ bi, bất kể lỗi lầm quá khứ của ông, chỉ cần thấy ông biết lỗi mà sửa đổi, thì vẫn coi ông là người tốt.

Lúc này, Đức Phật kiên nhẫn thuyết Pháp cho Ma Ha Lư, gợi mở huệ ngộ của ông, vừa đúng lúc cơ duyên cũng chín muồi. Sau khi nghe Đức Phật thuyết Pháp xong, Ma Ha Lư giác ngộ thành chính quả, đầu óc ngu độn lập tức khai sáng, khiến ông có thể liễu giải Pháp ngữ vi diệu của Đức Phật, có thể nhìn thấu hết thảy điều thế gian. Đức Phật biết ông đã ngộ Đạo, thúc giục ông khẩn trương tham gia phụng dưỡng quốc vương, đồng thời vì dân chúng mà thuyết Pháp. Lúc ông sắp rời đi, Đức Phật nói với ông: “Ma Ha Lư! Quá khứ khi con còn là trưởng lão, con đã thu nạp 500 đệ tử, nay 500 người ấy chính là 500 thầy tu đang phụng dưỡng quốc vương, giờ con mau chóng đi đi, họ đang chờ đợi sự chỉ bảo của con đó.”

Sau khi lạy chào Đức Phật, Ma Ha Lư đi tới vương cung, đúng lúc bữa tiệc vừa mới bắt đầu. Ma Ha Lư nhìn thấy vị trí ghế thượng tọa chưa có ai ngồi, ông không chút do dự đi tới ngồi xuống, mọi người nhìn thấy thái độ của Ma Ha Lư đều cho rằng ông điên rồi, nhưng trong hoàn cảnh trang nghiêm như vậy, ở ngay trước mặt quốc vương, không ai dám nói gì. Đến khi mọi người đã ăn no thì Ma Ha Lư đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt mọi người không chút sợ hãi. Với giọng nói xúc động lòng người và tướng mạo trang nghiêm, ông thuyết Pháp cho 500 thầy tu và tất cả mọi người ở đó nghe, ai ai cũng đều kính nể.

Năm trăm thầy tu vô cùng xấu hổ vì đã từng cho rằng ông là kẻ ngốc, ấy vậy mà cuối cùng ông lại là người giác ngộ và chứng đắc quả vị.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/6/25/38262.html
http://pureinsight.org/node/4080