30 tháng 8 2010

Một chuyến du hành đến thiên đường Tây phương

Do một học viên tại thành phố Tế Nam, tỉnh Sơn Đông kể lại, và được ghi chép bởi một bạn học viên
[MINH HUỆ] Vào một buổi chiều cách đây không lâu, khi đang ở nhà, đột nhiên tôi cảm thấy mình đã đi vào một thiên đường Tây phương. Tôi không quen thuộc với văn hóa Tây phương chút nào. Tôi chỉ học được một chút ít về văn hóa Tây phương qua phim ảnh. Tôi sẽ cố nhớ lại những gì tôi đã nhìn thấy.
Tôi nhìn thấy hai “tiểu thiên sứ” đến hướng dẫn tôi đi sang thiên đường của họ. Tôi vẫn còn nhớ mái tóc vàng óng ánh và đôi mắt xanh của họ. Họ đáp xuống, với một đôi cánh trên lưng, và một vòng hào quang trên đầu họ. Họ thật thánh thiện và dễ thương không thể tả khi họ cười và bay lượn trên đầu tôi. Khi tôi cố chạm vào họ, thì họ lùi lại và bay đi.
Họ dẫn tôi đi vào thiên đường của họ. Trên đường đi đến đó, tôi nhìn thấy nhiều thiên sứ nam và nữ của người Tây phương trong những bộ trang phục màu trắng. Họ mỉm cười với tôi và lịch sự cúi đầu chào. Tôi chắp tay trong thế hợp thập để trả lễ. Có những bông hoa và cây cối lạ lùng và màu nhiệm ở hai bên đường. Tôi nhìn thấy gần đó những con vật lạ lùng chỉ có trong huyền thoại. Ở đằng xa, có một dòng sông phát ra ánh sáng muôn màu. Đôi lúc tôi gặp được bên đường những chiếc bàn và ghế đá. Trên mặt bàn đá có những đĩa trái cây và bình nước. Khi các thiên sứ dùng xong trái cây và uống nước, các đĩa và bình nước tự động đầy lại. Toàn thế giới giống như một khu vườn lớn, và mỗi bông hoa và cây cối đều rất mịn màng và tỏa sáng. Cho dù thế giới thiên quốc này rất đẹp đẽ và mỹ diệu, tôi vẫn cảm thấy nó đang thiếu một cái gì đó.
Cuối cùng, tôi đến dưới chân một ngọn núi thấp. Đó là một ngọn núi trắng, nhưng không đúng là màu trắng như ở thế gian. Toàn ngọn núi tỏa ra ánh sáng. Lúc bấy giờ, tôi không để ý là hai thiên sứ đã rời đi. Có ba tòa nhà trên đỉnh núi, một tòa lớn ở giữa và hai tòa nhỏ hơn ở hai bên, nhưng mỗi tòa nhà có kiến trúc khác nhau. Khi tôi lên đến đỉnh núi, tôi nghe có tiếng động xuất phát từ tòa nhà bên tay phải. Tôi bước đến đó và nhìn thấy bên trong có một chiếc bàn hình trăng lưỡi liềm. Có nhiều thiên sứ đang đứng và ngồi bên trong. Hai vị thiên sứ đứng đối diện với cửa ra vào cũng mặc đồ trắng, nhưng họ đeo nhiều đồ trang sức. Kế đến, tôi bước vào tòa nhà lớn ở giữa. Đó là một tòa nhà rất vĩ đại. Có một hàng khoảng 20 cây cột lớn ở hai bên mặt trước tòa nhà. Phía sau các cây cột có một hành lang chạy song song với các cột. Tôi đi vào cửa và nhìn thấy một cái ghế to với chỗ dựa nằm đối diện với cửa ra vào. Có những chiếc ghế nhỏ hơn ở hai bên. Trên tường là những bức tranh rực rỡ nhiều màu sắc. Rất đẹp. Tôi không thể nói liệu chúng là được vẽ hay tạc trên tường.
Lúc bấy giờ, tôi nghe có tiếng người chào tôi. Tôi quay lại và nhìn thấy một vị thiên sứ đang mỉm cười với tôi. Ông có lẽ là một trong hai vị thiên sứ đến từ tòa nhà bên tay phải. Chúng tôi chào nhau. Tôi có cảm tưởng ông không biết tôi, nhưng ông không hề ngạc nhiên vì sự hiện diện của tôi. Ông cung kính nói: “Thế giới chúng tôi chào mừng Ngài đến thăm.” Tôi giải thích với ông là tôi tu luyện Pháp Luân Công nơi thế giới con người và không biết vì sao tôi lại có mặt ở nơi này. Ông mỉm cười với vẻ hiểu biết. Tôi nhìn ông kỹ hơn và để ý thấy ông cao lớn hơn các thiên sứ khác, với một vòng hào quang sáng chói hơn và một đôi cánh to hơn. Thân thể ông chiếu sáng như bạch ngọc. Ông phát ra một luồng ánh sáng dịu dàng. Ông mặc một chiếc áo choàng trắng và đeo vàng quanh cổ và ngực ông. Một bên tay ông cầm một quyền trượng ngắn bằng vàng có chạm trổ.
Khi ông đưa tôi xuống núi cũng trên con đường tôi đã đi lên, ông chỉ cho tôi thấy thế giới của ông. Tôi còn nhớ ông đã nói với tôi là vị Vua của họ tên là Morse hoặc tên gì nghe giống như vậy. Ông cũng nói với tôi tên của ông, nhưng quá khó nhớ đối với tôi. Ông nói thế giới của họ đã tồn tại trong một thời gian rất lâu dài. Sáu vị đại thiên sứ, kể cả ông, cùng các vị Thần khác, đi theo Vua của họ. Trong thế giới của họ, còn có nhiều thiên đường khác sống hài hòa với nhau. Các vị Vua và các thiên sứ từ các thiên đường khác thường đến thăm thế giới của ông. Vua của mỗi thế giới có một loại Thần lực khác nhau. Vua Morse có thể tạo ra những bông hoa thần thánh nhất qua lời cầu nguyện của ông. Tôi nghĩ điều này có lẽ là biểu hiện sự chứng ngộ của Vua Morse đối với Pháp của vũ trụ. Vị thiên sứ nhớ lại rằng thế giới của ông vĩnh viễn tươi đẹp và vui vẻ, nhưng một ngày kia, các bông hoa thần thánh nhất đã ngưng nở và những hiện tượng thần thánh khác không còn xuất hiện nữa. Tình trạng tương tự như vậy cũng phát sinh ở các thiên đường khác. Sau đó, Vua của họ và các vị Vua khác không còn vui vẻ nữa. Khi các thiên sứ hỏi về sự thay đổi trong thiên đường của họ, Vua Morse giải thích rằng đó là vì thế giới đã mất đi sự ổn định vĩnh cửu của nó.
Từ đó, Vua Morse thường cầu nguyện một mình, cho đến một ngày ông họp tất cả các thiên sứ và nói với họ tin về “Cha” của ông. Cha của ông nói với ông rằng các thiên đường nơi cấp cao hơn cũng đã mất đi sự ổn định vĩnh cửu của chúng, và Đức Chúa Sáng Thế (tôi nghĩ rằng đây là cách mà thể hệ thiên thể của họ gọi Sư Tôn) sẽ đi xuống thế giới con người để ổn định lại tất cả các thế giới. Vua Morse nói rằng Cha của ông sẽ đi theo Chúa Sáng Thế để cầu xin Ngài ổn định lại thế giới của ông. Nhiều vị Vua trong thế giới của Vua Morse đã nhận được khải thị tương tự để cầu xin với Chúa Sáng Thế. Các vị Vua họp lại và cùng nhau bàn bạc xem làm cách nào. Cuối cùng, họ quyết định chọn ra một nhóm sứ giả để đi xuống thế gian con người và cầu xin với Chúa Sáng Thế tìm một cách để ổn định các thế giới. Vua Morse được chọn làm một trong các sứ giả.
Khi Vua Morse sắp rời đi, tất cả các thiên sứ trong thiên đàng của ông đều rơi lệ, quì xuống và cầu xin được đi theo ông. Vua Morse cảnh báo với họ: “Các vị đừng bao giờ đi theo tôi, vì các vị sẽ bị lạc mất một khi xuống dưới đó. Đức Chúa Sáng Thế nhất định sẽ ổn định lại thế giới của chúng ta và đưa tôi trở lại. Các vị phải chờ tôi ở đây.” Sau đó, Vua Morse và các vị Vua được chọn khác đi xuống trái đất. Từ đó, các thiên sứ rất nhớ Vua của họ, và tất cả những gì họ có thể làm chỉ là cầu nguyện và trông mong sự trở về của ông.
Vị thiên sứ nói với tôi điều gì đã xảy ra cho vị Vua của họ và các vị Vua khác mà ông biết. Vua Morse và một vị Vua khác đầu tiên đi xuống nước Nga, nhưng bây giờ họ đang ở Hà Lan và Đan Mạch, mỗi người một nơi. Ông đưa tôi đến trước cửa thiên đường của họ. Đó là một cánh cửa thành màu trắng cao đến tận trời. Nó rất khác với cánh cửa ở Trung Quốc. Đứng ở nơi đó, tôi nhìn lại thế giới của họ. Một cảm giác lạ lùng lại in vào tâm trí tôi, cho dù tôi không thể nói lên thành lời. Vị thiên sứ hình như đọc được ý nghĩ của tôi. Ông nói: “Ngài cảm thấy thế giới của chúng tôi đã thiếu mất niềm vui. Từ khi Vua chúng tôi rời đi, không bông hoa hoặc cây cỏ nào ở nơi đây lại có được sự vui vẻ.” Sau đó tôi cũng đọc được tư tưởng của ông: “Con cầu xin Đức Chúa Sáng Thế hãy từ bi với Vua của chúng con. Xin hãy chăm lo để Ông đừng bị lạc mất nơi thế giới con người, và xin hãy mang Ông trở lại.” Tôi cảm nhận được nỗi buồn trong sự mong mỏi và niềm đau trong tư tưởng của ông. Tôi nói với ông: “Sư Tôn của chúng tôi đang truyền Pháp vũ trụ nơi thế giới con người trong khi cứu vãn toàn vũ trụ. Sư Tôn của chúng tôi từ bi với tất cả chúng sinh và sẽ cứu độ tất cả chúng sinh, kể cả Vua của các vị. Hơn nữa, Pháp Luân Công đã khai truyền đến nhiều nơi trên thế giới con người, kể cả Nga, Hà Lan, và Đan Mạch. Xin đừng lo lắng và hãy chờ đợi sự trở về của ông.”
Tôi vẫy tay chào tạm biệt và rời khỏi thế giới của ông. Khi trở về, tôi nhớ lại Pháp mà Sư phụ từng giảng. Sau đó một tia sáng chiếu rọi từ trên bầu trời xuống đầu tôi. Tôi nhìn lên và thấy bầu trời đã xẻ đôi, hiển lộ các thiên đường bên trên. Có những thiên đường ở các cấp càng cao hơn và cao hơn, mỗi nơi đều to lớn hơn, tươi sáng hơn và trong suốt hơn cái trước đó. Tôi nhìn thấy rõ nhất là thiên đường ở gần nhất. Tôi cũng nhìn thấy nhiều vị Thần. (Hình dáng và trang phục của họ rất khác với các vị Thần mà tôi đã gặp. Tôi không có cách nào để diễn tả ra ngoại trừ gọi họ là các vị Thần.) Họ đang nhìn xuống thế giới con người. Tôi nhìn thấy sự trông chờ trên gương mặt của họ và sự mong mỏi trong mắt của họ. Tôi đoán rằng họ đang chờ đợi sự trở về của các vị Vua hoặc Chủ của họ. Sau đó tia sáng rút lại và biến mất trên bầu trời. Lúc đó tôi đã trở về với thực tại.
Chúng ta là học viên Pháp Luân Công trong thời Chính Pháp, chúng ta đang gánh vác một sứ mệnh trọng đại trong lịch sử. Những quần thể sinh mệnh vĩ đại từ các đại khung thiên thể xa xôi đang đặt kỳ vọng vô hạn nơi chúng ta và đang chờ đợi sự trở về của chúng ta. Còn lý do gì để chúng ta không làm tốt ‘ba điều’ đây? Việc các học viên Pháp Luân Công tu luyện tốt hay không sẽ quyết định sự đắc độ hay không của các quần thể sinh mệnh đó, bao gồm vô lượng chúng sinh!
Chúng ta đã biết rằng nhiều người trên trái đất là những vị Vương, Chủ và Thần của các thiên thể to lớn. Họ là đại biểu của những quần thể sinh mệnh vĩ đại. Nhưng nhiều người đã đánh mất bản tính của họ và bị mê mờ ở thế gian con người. Có thể chúng ta đã từng nhiều lần cầu xin Sư phụ đánh thức chúng ta nếu chúng ta mê lạc nơi thế giới con người. Là học viên Pháp Luân Đại Pháp thời Chính Pháp, là các vị Phật Đạo Thần trong tương lai, chúng ta không nên tự hài lòng với việc học Pháp luyện công tại nhà. Đương nhiên, khi ấy là chúng ta tiếp xúc trực tiếp với Pháp, nhưng chúng ta phải bước ra “giảng thanh chân tướng” về Pháp Luân Công. Chúng ta phải đến mọi nơi trên trái đất này, bất cứ nơi nào có nhân loại sinh sống để cứu các vị Vua và Chủ đại biểu cho các thiên thể vĩ đại ấy!
Dịch từ:
http://minghui.ca/mh/articles/2008/7/13/181977.html
http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2008/7/29/99339.html

Ngày đăng: 28-08-2010

Ăn buffet: Một bài học về đạo đức

Tác giả: Xin Wu

[Chanhkien.org] Hôm nay, tôi đọc một bài trên website Minh Huệ mà như thật sự nói về tôi. Sau đây là một trích đoạn:

“Trước ngày nghỉ mùng 1 tháng 5, tôi ra ngoài cùng em dâu. Tôi dẫn cô ấy đến nhà hàng buffet ăn trưa. (Em dâu tôi không phải là học viên Đại Pháp, nhưng cô ấy đã bảo vệ tôi và sách Đại Pháp.) Lúc ấy, tôi nghĩ mình không nên tham lam hay phí phạm thức ăn. Tôi nên ăn càng nhiều càng tốt. Chúng tôi chọn thức ăn xong rồi đặt khay xuống bàn tròn. Tôi nhanh chóng ăn xong và còn lại một ít súp trong bát inox. Em dâu tôi vẫn chưa ăn xong, vì thế tôi ngồi đợi. Lần này, một người đàn ông trung niên ngồi kế bên trái tôi nói với tôi: “Chị gái, (Chú thích của người dịch: Người vùng Đông Bắc Trung Quốc chào người khác là anh/chị gái để bày tỏ sự thân mật và tôn trọng) chị không giống những người bình thường khác. Chị là một người tốt.” Tôi cười: “Anh trai, tại sao vậy?” Ông ấy chỉ vào khay của tôi bằng đôi đũa và nói: “Tôi thấy chị đã ăn hết phần thức ăn của mình. Ngày nay điều ấy thật là hiếm có! Chị thấy nhiều người khác bỏ đi khi vẫn còn quá nhiều thức ăn (chỉ vào khay của những thực khách sắp rời đi). Theo tôi, tất cả các thực khách đang ở đây không tốt như chị. Chị thấy tôi cũng không ăn hết phần của mình. Tôi thấy xấu hổ. Chị, phải chăng chị là học viên Pháp Luân Công? Tôi biết tất cả các chị đều là người tốt. Chị nhất định có tập Pháp Luân Công.” Nghe những điều này, tôi nói: “Anh à, anh thật tinh ý. Anh đã không nhầm đâu. Anh nói rất hay. Tôi là học viên Pháp Luân Công.” Em dâu tôi vui vẻ nghe cuộc đối thoại của chúng tôi. Cô ấy nói người đàn ông này thực sự có khả năng phân biệt tốt xấu.”

Tất cả chúng ta đều biết quy định trong buffet cho phép thực khách có thể lấy và ăn bao nhiêu thức ăn tùy thích bằng cách trả một số tiền nhất định. Do đó, nhiều người vào trong nhà hàng buffet nghĩ rằng có thể lấy càng nhiều càng tốt và ăn càng nhiều càng tốt, vì anh/cô ấy đã trả tiền. Vì sự tham lam và ích kỷ của con người, kết quả là họ thường lấy nhiều hơn những gì họ có thể ăn. Rất nhiều thức ăn bị ném vào thùng rác mỗi ngày.

Tôi cũng từng như họ, trước khi bắt đầu tập Pháp Luân Đại Pháp. Tôi không cảm thấy có gì sai khi mọi người đều làm như vậy. Sau khi bắt đầu tu luyện, tôi dần dần chú ý hơn tới lời nói và hành vi của mình để xem chúng có tuân theo tiêu chuẩn Chân-Thiện-Nhẫn hay không. Hãy suy nghĩ: rau và các thực phẩm khác do nông dân vất vả làm ra. Thật khó để làm ra một hạt thóc. Người xưa có câu: “Trưa làm việc trên đồng, mồ hôi rơi xuống đất. Ai biết trên đĩa thức ăn, mỗi hạt thóc có bao nhiêu sức lực.” Hơn nữa, nhiều người trên thế giới đang bị thiếu đói. Phung phí kiểu này tương đương với việc tạo nghiệp.

Điều khiến tôi cảm động không chỉ là việc người phụ nữ này đã không lãng phí thức ăn, mà còn là vì một người lạ có thể nói rằng bà ấy là một học viên Pháp Luân Đại Pháp qua hành vi của bà. Mấy thập niên trước, mọi người đều cẩn thận không phung phí thức ăn khi khẩu hiệu “hãy tiết kiệm, tránh phung phí” được phổ biến trong những thập niên 50 và 60. Bây giờ điều này đã trở thành “điểm nổi bật” để nhận ra các học viên Pháp Luân Công. Ngày nay, mọi người đều nói đạo đức nhân loại đã xuống cấp trầm trọng, rằng chuẩn mực đạo đức xã hội thật thấp kém. Không ngạc nhiên khi ngày càng có nhiều người tập Pháp Luân Đại Pháp, bởi vì Pháp Luân Đại Pháp thực sự dạy người ta cách trở thành một người tốt.

Dịch từ:

http://pureinsight.org/node/968

Ngày đăng: 27-08-2010

Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo

Tác giả: Một học viên Đại Pháp

[Chanhkien.org] Hồi còn nhỏ, cha mẹ thường bảo tôi: “Con người ta nên làm việc thiện và có tấm lòng rộng mở. Chúng ta nên cứu giúp những ai cần giúp đỡ và không làm việc xấu. Hãy nhớ: thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo.”

Trong “Đại Cách mạng Văn hóa”, nhiều bức tượng Phật và chùa chiền đã bị phá hủy. Mẹ tôi rất buồn khi nói với tôi: “Phật đã rời đi. Phật không còn bảo hộ thế nhân nữa. Thế nhân đang phạm tội.”

Cha tôi được người dân ở tất cả các huyện lân cận, cách xa tới hàng chục dặm gọi là “ông Lý tốt bụng”. Cha tôi luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác và nghĩ về người khác trước. Với tấm lòng rộng mở, ông thà tự mình gánh chịu còn hơn để người khác chịu điều thiệt thòi. Thậm chí với những việc nhỏ nhặt, ông cũng không thể ăn ngon ngủ yên nếu người khác chịu đau khổ, dù chỉ là một chút. Khi ông mất lúc 82 tuổi, tôi mơ thấy mình đang trên đường trở về nhà. Tôi thấy một vị Thần vĩ đại mặc áo choàng trắng, với một bộ râu dài, và mang theo một cây phất trần (thứ được các Đạo sĩ mang theo). Vị Thần nói: “Con của ta, con cần quay về nhà gặp cha con. Ông ấy đã lên thiên đường.” Sau đó vị Thần vĩ đại bay mất trong làn mây trắng. Tôi không hiểu tất cả chuyện này và nghĩ rằng nó chỉ là giấc mơ. Sau khi học Pháp Luân Đại Pháp, tôi nhận ra rằng cha tôi đã được thiện báo nhờ những việc làm tốt của ông khi còn tại thế.

Nhờ ơn dạy dỗ của cha mẹ, tôi đã nuôi dưỡng những hạt giống thiện lành trong tâm. Khi trưởng thành, tôi làm việc trong lĩnh vực tài chính. Bất kể là kế toán hay thủ quỹ, tôi tận tâm làm việc và không bao giờ lợi dụng chức vụ để kiếm tiền cho bản thân. Từ khi Trung Quốc bắt đầu chính sách cải cách và mở cửa ra bên ngoài, đạo đức con người ngày càng trở nên băng hoại. Họ chỉ nghĩ đến bạc tiền và sẽ không từ một điều gì để tư lợi. Các quan chức tham nhũng và một số nhân viên dịch vụ tài chính cũng đang làm như vậy. Tôi rất phẫn nộ và từ chối hợp tác với họ. Do đó, họ cố gắng tìm khuyết điểm và gây chuyện với tôi. Đôi khi họ thậm chí chửi rủa trước mặt tôi nơi công cộng. Tuy nhiên, tôi biết rằng mình vô tội. Vì thế tôi không có gì phải sợ. Mỗi lần họ tìm cách gièm pha, tôi đều giải thích tình huống đúng với sự thật và bỏ qua mọi thứ. Một số đồng nghiệp nói tôi thật ngốc và thiếu khả năng đến mức không biết phải làm sao với những thứ ngày nay, tức là, người khác bắt nạt tôi rất nhiều mà tôi không biết trả thù lại hay thậm chí không màng đến. Sau khi học Pháp Luân Đại Pháp, tôi nhận ra rằng những gì tôi làm là hoàn toàn đúng trong khi những người khác đã hoán đổi đức lấy nghiệp lực của tôi.

Trong những năm sau “Đại Cách mạng Văn hóa”, nghề bói toán trở nên khá phổ biến. Một hôm, người quản lý, kế toán viên và tôi đi xem bói. Người thầy bói đưa mắt nhìn ba chúng tôi và nói rằng: “Tôi thích nói thẳng. Mặc dù hiện tại hai người đang hưởng thụ, trong vài năm tới hai người sẽ không còn quá hạnh phúc như thế nữa. Hai người không thể sánh với cô ấy (chỉ tôi). Cô ấy sẽ có tương lai tốt đẹp và sẽ nhận được thiện báo về sau.” Hóa ra điều đó vô cùng chính xác. Vài năm sau, hai người họ bị bắt vì những gì họ đã làm, gia đình họ tan vỡ và các thân nhân của họ qua đời. Sau khi học Pháp Luân Đại Pháp, tôi hiểu ra rằng đó là những gì họ sẽ phải nhận. Cũng như Sư phụ từng giảng: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo.” Đó là một nguyên lý trong vũ trụ.

Bây giờ tôi đã đắc Pháp, đó là may mắn vĩ đại nhất mà một người có thể tưởng tượng ra được. Pháp Luân Đại Pháp là nguyên lý cơ bản trong vũ trụ. Ghi nhớ ba nguyên lý “Chân – Thiện – Nhẫn” chính là có trách nhiệm thật sự với sinh mệnh của mình.

Dịch từ:

http://pureinsight.org/node/970

Ngày đăng: 27-08-2010

Từ lời khải thị trong “Khải huyền” đến “thoái đảng”

Tác giả: Chân Khải ở Trung Quốc

[Chanhkien.org] Những người từng đọc qua Khải huyền (*) trong Thánh Kinh đều biết, đó là một dự ngôn bất hủ từ hơn hai nghìn năm trước. Tác giả chính mắt thấy “Thần nhân dị sự”, tường thuật lại cho mọi người biết, nghe như như chuyện thần thoại, thực tế là hình tượng tô vẽ sinh động để ám chỉ toàn bộ sự việc xảy ra tại nhân loại ngày nay. Nhất là dự đoán của nửa đoạn sách sau cùng (bắt đầu từ chương 12). Trong đó đã ẩn ý và còn khéo léo mô tả về xích long (rồng đỏ), con thú và đại dâm phụ. Như hiểu thấu thiên cơ, dự ngôn khiến người ta kinh ngạc sửng sốt, chấn động tâm can.

Đối với xích long, con thú và đại dâm phụ, nhiều người đã có ý kiến sâu sắc, phân tích độc đáo và đăng trên Internet. Bài này không tường thuật lại nữa. Đáng chú ý là, những người đã tôn thờ con thú cùng hình tượng con thú, đều bị đánh dấu vết thú vật. Trong Chương 14 của Khải huyền viết:

“Nếu ai thờ phượng con thú cùng tượng (hình ảnh) nó, và chịu dấu nó ghi trên trán hay trên tay, thì người ấy cũng vậy, sẽ uống rượu thịnh nộ không pha của Ðức Chúa Trời rót trong chén thịnh nộ Ngài; và sẽ chịu đau đớn trong lửa và diêm (diêm sinh) ở trước mặt các thiên sứ thánh và trước mặt Chiên Con. Khói của sự đau đớn chúng nó bay lên đời đời. Những kẻ thờ lạy con thú và tượng nó, cùng những kẻ chịu dấu của tên nó ghi, thì cả ngày lẫn đêm không lúc nào được yên nghỉ.”

Như trong Khải huyền mô tả, những người mang dấu ấn của con thú —tức là những người lúc nhập đảng, nhập đoàn, nhập đội, đứng trước lá cờ đỏ như máu của Trung Cộng (Đảng Cộng sản Trung Quốc), tay phải giơ lên như quả đấm, mà phát lời thề độc: “Tôi nguyện hiến dâng cả đời cho Đảng, thề phấn đấu cả đời cho sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản” thì họ đã bị con ác thú kia đánh dấu lên trán hoặc tay phải, rất là nguy hiểm— trong Chương 16 của Khải huyền còn có tường thuật thật ghê gớm:

“Vị thiên sứ thứ nhất đi trút bát mình xuống đất, thì trở nên ghẻ chốc dữ và đau trên những người có dấu con thú cùng thờ lạy hình tượng nó”.

Quan hệ đến những người có dấu ấn của con thú, Chương 16 còn viết:

“Vị thiên sứ thứ năm trút bát mình trên ngôi con thú, nước (quốc gia) của nó bèn trở nên tối tăm, người ta đều cắn lưỡi vì đau đớn. Chúng nó nói phạm đến Ðức Chúa Trời trên trời vì cớ đau đớn và ghẻ chốc mình, và cũng không ăn năn công việc mình”.

Từ hai đoạn văn đã tường thuật trên, chúng ta có thể nhận thức rõ ràng rằng: (i) những ai mang dấu ấn con thú (đã từng vào đảng/đoàn/đội của Trung Cộng mà chưa từng thoái xuất), sẽ vì tội ác Trung Cộng quá nhiều, mà bị thiên đình trừng trị nghiêm khắc, trên thân sẽ mọc toàn mụn độc; (ii) đương lúc những người có mang dấu ấn của con thú bị trừng phạt, không những không thể tỉnh ngộ trước lỗi lầm của mình (không thoái xuất khỏi Trung Cộng, tiếp tay tăng cường cho Trung Cộng, vào hùa với thế lực tà ác) mà còn oán hận chư Thần. Trong Khải huyền, phần cuối Sự phán xét cuối cùng (Chương 21) có chép lại như sau:

“Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm ghét, kẻ giết người, kẻ dâm loạn, kẻ phù phép, kẻ thờ thần tượng, và phàm kẻ nào nói dối, phần của chúng nó ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng”.

Những người tạo nhiều tội ác, cùng với những người có dấu ấn thú vật, đều sẽ bị vứt vào hồ lửa cháy lưu hoàng (diêm sinh). Đó là màn bi thảm nhất và đáng sợ nhất.

Từ lời tường thuật trên đây, thì những người có mang dấu vết thú, xác thực là rất nguy hiểm. Nhưng đối với quần chúng lâu dài sinh sống ở Trung Quốc, họ hoặc không biết, hoặc lạnh nhạt không quan tâm đến, cứ nghĩ mình sẽ bình an vô sự mà chạy theo danh lợi. Hay như câu chuyện con thuyền Nô-ê (Noah) mà mọi người đều biết:

“Vì trong những ngày trước nước lụt (đại hồng thuỷ), người ta ăn, uống, cưới, gả như thường cho đến ngày Nô-ê vào tàu, và người ta không ngờ chi hết cho đến khi nước lụt tới mà đùa đem đi hết thảy.” (Ma-thi-ơ, Thánh Kinh).

Con người ở nơi con người, nhưng vào lúc hết thảy đại nạn sắp đến, Trời thế nào cũng khải thị (bảo cho biết) và điểm hoá con người. Thường thường con người không tỏ ngộ, không hiểu ý, không coi sự việc ấy là khuyên can của Trời. Cứ tưởng tất cả đều là ngẫu nhiên, chính vì con người chấp mê bất ngộ, không biết thu vén hành vi của mình, không biết lỗi mà sửa, đó là nguyên do Trời trừng phạt con người.

Hiện nay, nhất là xã hội ở Trung Quốc, giàu nghèo chênh lệch rất xa, nhiều người đời sống nghèo túng, còn vì tìm việc làm mà lao khổ vất vả cả ngày. Vì thế rất nhiều việc họ đều không quan tâm đến. Đặc biệt họ lờ đi trào lưu “tam thoái” (thoái xuất khỏi Đảng Cộng sản và các tổ chức liên đới như đoàn và đội). Dường như tất cả chưa từng xảy ra, dường như tất cả đều không có liên quan gì đến họ cả. Nhưng thật sự tất cả đều không có liên quan gì tới họ chăng? Tôi không thể không hỏi, những người không may đang sinh sống ở Trung Quốc, có ai đã chưa từng chủ động hoặc bị động phải gia nhập tổ chức của tà đảng (bao gồm Đảng Cộng sản, đoàn thanh niên, đội thiếu niên, hồng vệ binh hoặc hồng tiểu binh)? Nếu có một ngày, khi những lời tiên tri trong Khải huyền ứng nghiệm, thiết nghĩ, những người ấy đã không kịp hối lại, lúc ấy sẽ như thế nào? Chỉ sợ đốt hương lạy dập cả đầu đã quá trễ rồi! Người ta nói, thà tin có việc ấy, chứ đừng không tin không có việc ấy. Con dế cái kiến còn biết trân quý sinh mạng của mình, huống là con người. Dùng lời người Trung Quốc thường nói, thì trên thế gian không có thuốc hối hận. Trên thực tế, đại đa số người Trung Quốc đều biết rõ sự thối nát và suy đồi của Trung Cộng, chẳng qua vì tê dại lâu quá chưa muốn thoát rời, tại sao phải đợi đến bước “không thấy quan tài không rơi lệ”?

Thực ra, ngoài lời tiên tri trong Khải huyền, còn có thể tham chiếu nhiều dự ngôn khác, chẳng hạn như “Thiêu bính ca” (Bánh chiên ca), “Kim Lăng tháp bi văn” (Tiên tri trên bia đá ở tháp Kim Lăng) của Lưu Bá Ôn trong triều Minh, “Thôi bối đồ” (Hình đồ đẩy lưng) của Lý Thuần Phong, Viên Thiên Cang thời nhà Đường, “Thiền sư thi” của Bộ Hư Thiền Sư ở triều Tuỳ. Còn có vài dự ngôn ở ngoại quốc như “Cách Am Di Lục” (Những ghi chép do Ge An để lại) của Hàn Quốc. Thông qua những dự ngôn này, không khó để phát hiện rằng, chúng ta đang ở trong thời đại cực kỳ nguy hiểm, cực kỳ then chốt, trước khi tất cả tai nạn chưa xảy ra, nếu kịp thời tỉnh ngộ, kịp thời tu tốt chính mình, thì nhiều tai nạn có thể tránh khỏi.

Ở trên vừa mới tường thuật lời tiên tri trong Khải huyền, giờ tôi thành khẩn khuyên can những người còn do dự, còn lạc đường chưa quay về, hãy mau mau thanh tỉnh, đừng nghe lời dối trá lừa gạt của Trung Cộng nữa. Hãy nắm chắc cơ hội Trời ban cho con người, nhanh chóng thoát khỏi nanh vuốt khống chế của Trung Cộng, cương quyết cắt đứt quan hệ với nó, lựa chọn một tương lai tươi sáng cho sinh mệnh mình.

Một lần nữa xin thành tâm nói một câu: những người lương thiện, hãy biết trân quý sinh mệnh của mình, trân quý tương lai của mình. Bằng mọi giá, đừng quên câu câu sấm sau:

“Thiên Đường tỏ lối ngươi chẳng bước,
Địa Ngục vô môn lại tiến vào.
Thoát nạn hay không, âu một niệm,
Đất Trời biện biệt rõ làm sao.”

Bài văn này chỉ thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

(*) Tham khảo Khải huyền từ: http://tinlanh.com/thanhkinh/tanuoc/khaihuyen/

Dịch từ Hán văn: http://dajiyuan.com/gb/5/7/28/n1000426.htm

Ngày đăng: 27-08-2010

04 tháng 8 2010

Khám phá chu kỳ luân hồi: La Hán, Hoàng tử Hy Lạp, Hoàng đế và cướp biển

Tác giả: Hàng Minh

[Chanhkien.org] Đó là một ngày Chủ Nhật lạnh giá ở miền Tây nước Mỹ. Khoảng một tuần trước, một người bạn nhờ tôi làm thôi miên cho một trong những họ hàng của anh, người đã lặn lội từ Châu Âu tới đây chỉ vì việc này. Vì vậy tôi phải ra khỏi nhà và tới nhà bạn của tôi, bất chấp thời tiết lạnh giá. Đối tượng lần này của tôi là một người theo Cơ Đốc giáo. Anh ấy đã nghe nói về những câu chuyện luân hồi từ người bạn của tôi, và muốn tự mình thử [được thôi miên]. Anh ấy nghĩ rằng có quá nhiều bí ẩn trong cuộc sống mà Cơ Đốc giáo không thể giải thích rõ ràng được.

Anh nhanh chóng đi vào trạng thái thôi miên. Không lâu sau, anh thấy mình bay lên bầu trời. Anh lượn vòng quanh Tây Ban Nha rồi bay sang Hy Lạp. Ở đó, anh lượn vòng quanh một hòn đảo. Nó thật đẹp, anh thốt lên. Anh nói rằng thắng cảnh đẹp nhất nơi thế gian cũng không sao sánh được với cảnh tượng trên thiên đàng. Phía trên mặt biển xanh biếc là bầu trời trong sáng bao la. Giữa những đám mây màu trắng, có nhiều tiểu thiên sứ với đôi cánh bạc bay qua bay lại. Anh chưa từng thấy nhiều thiên sứ bay lượn quanh mình như vậy bao giờ! Họ nhàn nhã bay lượn trong ánh sáng bạc và đi theo anh bất cứ nơi đâu.

Anh tiếp tục bay lượn quanh hòn đảo và không thể hạ xuống được. Tuy nhiên, khi màn đêm buông xuống, những đám mây đen kéo đến, mây đen ngày càng dày hơn, và anh bắt đầu hạ xuống. Quang cảnh hòn đảo dần dần trở nên rõ ràng hơn, và cuối cùng anh đáp xuống một cung điện. Cung điện nguy nga này có trần cao và được trang hoàng bởi những đồ vật rất cổ. Anh thấy mình trong bộ áo giáp với thanh kiếm dài giắt nơi thắt lưng, đang bước lên lầu. Những ngọn đuốc thắp sáng khắp hai bên cầu thang. Bầu không khí trong cung điện thật huy hoàng và trang nghiêm. Rồi anh bước vào đại sảnh. Trong phòng đang diễn ra một bữa tiệc ăn mừng lớn, với đầy đủ hoàng thân quốc thích. Anh trông thấy Hoàng hậu ngồi ở đó. Trong bộ váy trắng dài, bà trông thật cao quý và trang nghiêm. Anh bước tới trước mặt bà và quỳ gối xuống hành lễ. Hoàng hậu vỗ nhẹ vào đầu anh như thể hai người vô cùng thân thiết vậy. Rồi họ cùng lên lầu trên, nơi những người lính gác phục vụ họ nước uống. Anh thấy mình ngồi ngay cạnh Quốc vương. Anh nhận ra rằng anh là Hoàng tử của Vương quốc Hy Lạp. Sau này, anh được thừa kế Ngai vàng và trở thành Quốc vương của Hy Lạp.

Sau đó, anh chuyển sinh vào triều Tống ở Trung Quốc. Vào thời đó, anh là Thái tử và sau đó trở thành Hoàng đế.

Tiếp đó, anh chuyển sinh vào triều Minh. Tôi hỏi anh về mối quan hệ của anh với người sáng lập Pháp Luân Công, Sư phụ Lý Hồng Chí. Anh nói rằng họ đang cùng nhau bước đi trên một khu vườn rất đẹp, và ở đó có Sư phụ Lý, anh và anh trai anh trong kiếp sống hiện tại này. Mái hiên của các tòa nhà và những hành lang dài đều uốn cong lên trên, và phần nóc nhà trông thật tráng lệ. Hoàng cung này được xây dựng trên khu cảnh quan tự nhiên và được bài trí thật hài hòa.

Anh đang bước đi phía trước, theo sau là Hoàng Thái tử, và anh trai anh đi cuối cùng. Họ đi qua các khu vườn. Trong kiếp sống ấy, Sư phụ Lý là Hoàng Thái tử và anh là em trai của Hoàng Thái tử. Hoàng Thái tử sau này đã kế thừa vương vị và trở thành Hoàng đế. Anh đứng ngay cạnh bảo vệ Hoàng thượng, trông thật oai nghiêm.

Trong một kiếp sống khác, anh là một người cướp biển ở Phần Lan. Họ đang ra khơi. Anh thấy mình đứng trên boong cao nhất của chiếc thuyền. Vợ anh, trong bộ váy trắng, cũng ở trên boong tàu và ẵm một đứa trẻ trên tay, nhìn nó thật âu yếm. Cuộc hành trình này thật không hề dễ dàng. Khi thuyền ra vùng biển sâu, bầu trời bỗng nhiên tối sầm và mây đen kéo đến càng lúc càng dày. Một ngọn sóng lớn ập vào và quật ngã tất cả những thùng rượu trong khoang. Nhưng họ vẫn không sợ hãi và đã chiến đấu với cơn bão trong suốt đêm hôm đó. Lúc bình mình hé rạng, cơn bão cũng dần dần rút đi. Tất cả họ đều cảm thấy kiệt sức và muốn nghỉ ngơi, nhưng họ đã cạn thực phẩm và nước; vì vậy họ phải cập vào bờ. Con thuyền cũng cần phải sửa chữa. Sau một thời gian ngắn nghỉ ngơi, họ lái con thuyền hướng tới Stockholm. Điều thú vị là, anh nói, con thuyền hiện đang được bảo tồn tại Bảo tàng Hàng hải ở Stockholm [Thụy Điển] để du khách tham quan.

Rồi anh chuyển sinh vào thời Trung Hoa Dân Quốc (đầu những năm 1900). Anh là một trí thức vào thời ấy. Một ngày nọ, khi đang bước đi trên phố, anh trông thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp và nữ tính đi ngang qua. Anh ngay lập tức bị thu hút bởi vẻ đẹp của cô. Anh bước tới bên cô, ngả mũ chào và tự giới thiệu mình rất lịch thiệp. Khi gặp nhau, họ cảm thấy như thể họ đã biết nhau từ lâu và có rất nhiều chuyện để nói. Sau đó, cô gái trở thành tình nhân của anh và hai người kết hôn với nhau. Đó là một cuộc hôn nhân hạnh phúc và họ có một đứa con trai. Tuy nhiên, cuộc đời thật bất trắc. Không bao lâu sau, Nhật Bản xâm lược Trung Quốc và họ bị buộc phải lưu lạc để tỵ nạn chiến tranh. Họ phải lưu lạc tới tận miền Tây Nam, nơi các tỉnh Vân Nam và Quý Châu, và bị lạc mất nhau trên đường trốn chạy. Nhiều năm sau, cả hai người đều đã già. Anh tìm thấy cô sống trong một thị trấn nhỏ miền Giang Nam. Cô đang ngồi trải đầu và ngôi nhà trông thật sạch sẽ. Cuối cùng họ đã đoàn tụ sau nhiều năm xa cách. Khi trùng phùng, họ cảm thấy xúc động vô hạn.

Sau đó, anh nói với tôi rằng anh đã lên thiên quốc. Tôi nghĩ rằng đây là một cơ duyên quý giá không thể bỏ qua, nên tôi đã hỏi anh: “Anh có thể nhìn qua thiên quốc của anh vào lúc trước khi anh xuống nhân gian được chứ?”

Anh nói với tôi rằng anh trông thấy rất nhiều vị La Hán trong bộ cà sa màu đỏ, tất cả đều để trần một bên vai. Họ đang đồng thanh niệm kinh Phật trong bầu không khí thật trang nghiêm. Ngồi ở giữa là một vị Đại La Hán để đầu trần và cũng mặc áo cà sa màu đỏ. Anh đang ngồi ngay cạnh vị Đại La Hán này. Nhà cửa ở trên thiên thượng chỉ có tường mà không có trần hay mái nhà, và tất cả đều bằng vàng. Vị Chủ Tối Cao trên thiên thượng đã cấp cho anh một sứ mệnh, và anh quỳ xuống để tiếp nhận sứ mệnh thần thánh ấy. Đây là sứ mệnh vĩ đại nhất kể từ khi khai thiên tịch địa: Đi theo Vị Chủ Tối Cao của vũ trụ xuống thế gian con người để cứu độ chúng sinh. Vị Chủ Tối Cao ấy chính là Sư phụ Lý Hồng Chí. Anh rất tự hào trước sứ mệnh vĩ đại như vậy. Tuy nhiên, trước sự ngưỡng mộ và kỳ vọng vô hạn của các chúng sinh, anh cảm thấy chút gì đó buồn bã. Anh thấy mình cầm trong tay một tấm bài, thể hiện sự giao ước, và anh cũng đeo một miếng kim bài trước ngực.

Sau khi tiếp nhận sứ mệnh, anh bắt đầu cuộc hành trình giáng hạ xuống. Đứng trên mây, anh giáng hạ xuống từng tầng từng tầng một. Sau tầng thứ nhất, có một số cầu thang để đi xuống tầng thứ hai, và sau tầng thứ hai, có cầu thang để xuống tầng thứ ba và cứ như vậy. Anh đã giáng hạ qua nhiều tầng thứ và đi qua vô số thế giới cùng thiên quốc. Vũ trụ thực sự là mênh mông và kỳ diệu! Tại mỗi tầng thứ, lại có những tiên nữ, trông xinh đẹp phi thường; và tất cả các thiên quốc đều nguy nga và tráng lệ. Đôi khi anh đi trên những bậc thềm trên mây và nhìn thấy nhiều tiên nữ trong bộ y phục của người Đông phương, bay qua bay lại. Cảnh tượng là khác nhau tại mỗi tầng thứ. Anh ngạc nhiên khi thấy những con bò trên thiên thượng; tất cả chúng đều có sắc vàng. Anh cảm thấy mình đã đi qua những đám mây trong một thời gian rất lâu rồi, và giáng hạ xuống rất lâu rất lâu rồi.

Nơi anh xuống đầu tiên trên Trái đất chính là Thần Châu đại địa – Trung Quốc. Đây đúng là mảnh đất mà chư Thần hạ thế, và nền văn hóa của nhân loại đã được sáng tạo ra.

Rồi anh thấy mình trở thành một đứa bé trai. Một cỗ xe ngựa phóng tới và đón anh đi. Đây là cỗ xe với bốn ngựa kéo đằng trước và bốn ngựa kéo đằng sau. Đó là vào thời Xuân Thu – Chiến Quốc của Trung Quốc cổ đại (trước năm 720 TCN).

Sau đó, anh trở thành một nho sinh là là thầy dạy học của Thái Tử Phù. Thái Tử Phù đang ngồi đọc sách, những cuốn sách làm từ những thẻ tre được buộc vào nhau với chữ viết lên đó. Thái Tử Phù sau đó đã trở thành Hoàng đế. Ông rất tôn trọng thầy của mình, và để người thầy ngồi ngay cạnh mình khi chấp chính.

Sau đó, anh thấy mình tham gia vào một trận chiến. Chiến trường nằm ngay gần tỉnh Hà Nam ở Trung Quốc hiện nay, và những nước tham chiến bao gồm Lỗ, Tề và Tần. Anh trông thấy những lá cờ bay phấp phới trong gió; một lá cờ có chữ “Lỗ” viết trên đó. Trước khi trận chiến bắt đầu, các tướng lĩnh có một cuộc họp trong doanh trại để thảo luận về tình hình ở bên ngoài. Anh thấy mình đang vẽ và đánh dấu rất nhiều trên mặt đất. Trận chiến thật là khốc liệt và có rất nhiều người tử nạn. Sau trận chiến, anh đi tìm người quen trong hàng đống tử thi. Nhưng sau một hồi lâu tìm kiếm, anh vẫn không thể tìm thấy người ấy và cảm thấy vô cùng thương cảm.

Sau đó, anh quay trở lại Hy Lạp. Cung điện của người Hy Lạp nằm ở ngay bờ biển, có những hành lang dài, và cát ở đó thật mịn. Anh đã có một cuộc đời rất hạnh phúc trong kiếp sống ấy. Anh là một đứa bé trai và thường vui chơi với những đứa trẻ khác. Hoàng hậu cực kỳ mỹ lệ. Bà mặc một chiếc váy dài chấm xuống đất và đội một chiếc mũ. Sau đó, anh tản bộ trên bãi biển cùng Hoàng hậu vào buổi hoàng hôn. Phong cảnh bãi biển thật là đẹp; có trời có biển, và vũ trụ mênh mang trong tầm mắt. Cảnh tượng ấy khiến tâm hồn người ta trở nên rộng mở hơn.

Tuy nhiên, hạnh phúc trên thế gian này thật là ngắn ngủi. Vị Quốc vương trẻ tuổi nhanh chóng già đi. Ông không còn khỏe mạnh và trẻ đẹp như trước đây nữa. Sau đó, anh thấy vị Quốc vương đang hấp hối và có rất nhiều người đứng quanh giường ông. Họ vây quanh ông và nét mặt họ thật buồn bã. Một chiếc quan tài đã được đưa vào phòng. Sau đó, anh trông thấy xác chết của chính mình và linh hồn anh bay lên trần nhà. Anh trông thấy những cung nhân đang bận rộn chuẩn bị đám tang và họ để xác chết của anh vào một chiếc quan tài màu đen. Họ đưa chiếc quan tài tới một thung lũng để mai táng. Anh ngồi trên đỉnh núi nhìn ngắm tất cả những cảnh tượng ấy và tự hỏi họ mải mê bận rộn như vậy để làm gì.

Sau đó, anh thấy mình quay trở lại thiên đàng và lại tiếp tục giáng hạ xuống. Anh trông thấy nhiều thế giới Phật của người phương Đông và thế giới Thần của người phương Tây. Anh cũng trông thấy nhiều tiểu thiên sứ đang bay lượn. Họ có rất nhiều, bay qua bay lại, trông thật mỹ diệu.

Rồi anh nói anh rất mệt vì phải quan sát và cảm thấy rất đói. Tôi nói với anh: “Nhanh lên và hãy chào hỏi các tiểu thiên sứ, và nếu anh muốn về, thì hãy quay về.” Rồi anh quay trở về.

Sau khi trở về, anh nói rằng anh rất đói và cảm thấy đầu căng lên. Sau đó, anh sờ lên trán chỗ thiên mục, vò đầu và dụi mắt. Anh nói rằng trải nghiệm vừa qua là rất thú vị, và anh ngạc nhiên khi thấy rằng trong lúc thôi miên, anh hoàn toàn tỉnh táo và có thể nghe được tiếng người ta gọi điện thoại ở tầng dưới và tầng trên, và cả tiếng bước chân của họ. Anh nói rằng anh cảm thấy giống như vừa xem một bộ phim – lúc thì anh ở nơi này, lúc lại ở nơi khác. Anh có thể xem điều mà anh muốn xem, và nó như thể là anh đã có mặt ở trong chính khung cảnh ấy, ngoại trừ việc không có âm thanh. Anh nói rằng đôi lúc anh quên mất tên của chính mình.

Anh nói: “Đây đúng là một trải nghiệm mở rộng tầm mắt. Luân hồi là có thật. Vũ trụ bao la này thật là kỳ diệu và phi thường. Tôi đã nhận ra rằng tôi có một duyên phận rất lớn với Pháp Luân Công. Tôi sẽ không quên sứ mệnh và thệ nguyện xưa kia của mình.”

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/12/25/35054.html

http://pureinsight.org/node/3804

Ngày đăng: 03-08-2010