03 tháng 2 2013


Ký ức cổ xưa: Thánh Vương thụ ký
Tác giả: Trí Lương

[Chanhkien.org] Đây là một câu chuyện xa xưa vào khoảng 5.000 năm trước, sân khấu của câu chuyện này là tại một ngọn núi ở giữa Châu Âu, núi Anpơ (Alps).
Do đạo đức bại hoại, Thần đã phát đại hồng thủy để trừng trị và đào thải những người xấu, hủy toàn bộ công cụ lao động khoa học kỹ thuật cao, và nhân loại lại bắt đầu xây dựng nền văn minh của mình từ con số không.
Vào khi đó tôi sinh ra ở dưới chân núi Anpơ, trong một gia đình nông dân du mục bình thường. Cuộc sống từ lúc sinh ra mãi cho đến độ tuổi hiểu chuyện đều rất khắc khổ, tuy nhiên lại hết sức thật thà, chất phác, tự tại. Thời thơ ấu, mỗi khi Xuân về, tôi thường cùng với người bạn thuở ấu thơ của mình leo lên núi Anpơ để du ngoạn vui chơi. Vào mùa Xuân băng tuyết trên núi Anpơ tan chảy ra, những đồi cỏ và dòng suối trong xanh giữa núi trở thành nơi lý tưởng để du ngoạn và chơi đùa. Vào khoảng 7 tuổi, trong khi leo đến đỉnh núi, tôi vô tình bắt gặp một con nai tuyết, dường như đang muốn dẫn tôi đến một nơi bí mật trên đỉnh núi. Tôi mạo hiểm đi theo con nai tuyết ấy, vượt qua tầng tầng các sơn động, rồi đến một hang động bí mật.
Ở trong hang động, một người đàn ông tuổi trung niên đang ngồi đả tọa ở đó, ngay ánh mắt đầu tiên của tôi khi nhìn thấy ông thì đã cảm thấy hết sức quen thuộc. Người đàn ông trung niên cười vui vẻ, gọi tôi bước đến bên cạnh ông. Tôi mơ hồ bước đến bên cạnh ông, rồi ông vẫy tay một cái, trong phút chốc ký ức tư tưởng sâu xa đã bị khóa lại của tôi được mở ra khoảng 5 phần. “Ôi, chẳng phải sư phụ đây sao?”
Bắt đầu từ hôm đó, có thời gian là tôi liền leo lên hang động bí mật trên đỉnh núi để theo thầy học Đạo. Mỗi lần sư phụ giảng Pháp cho tôi cũng đều là khẩu truyền tâm thụ, Pháp chân chính chỉ có thể tâm lĩnh thần hội. Rồi cứ như thế xuôi ngược leo trèo lên hang động bí mật ở đỉnh núi được 8 năm, khi đến độ tuổi 15 hiểu chuyện rồi, sư phụ nói với tôi rằng công phu tạo cơ sở ở tầng thấp đã học xong cả, đến lúc thụ ấn ký của bổn môn ta rồi. Pháp môn mà tôi tu luyện khi đó là Kỳ Môn công pháp, sau khi tu luyện đến một tầng thứ nhất định thì sư phụ sẽ thụ ấn ký (đánh dấu), dẫn dắt đệ tử chân tu đột phá lên cảnh giới cao thâm. Cái hang động bí mật đó thực ra là ở một không gian khác của sơn động, trong một tầng không gian vi quan hơn so với phân tử, vì vậy mà người bạn thuở ấu thơ của tôi mới không thể phát hiện ra được trong suốt ngần ấy năm. Đôi mắt của người thường là không nhìn thấy và nói rõ ràng được.
Sau khi được sư phụ thụ ký, tôi luyện công lại càng khắc khổ hơn, yêu cầu đối với tâm tính từ nông cạn đến thâm sâu càng nghiêm khắc. Ba năm sau, theo chỉ dẫn của sư phụ, tôi cùng với người bạn thuở ấu thơ của mình bái lạy trời đất để trở thành vợ chồng chính thức, tuy nhiên điều này không chút ảnh hưởng gì đến sự tinh tấn thực tu, phản bổn quy chân của tôi. Rồi 3 năm qua đi, Sư phụ nói với tôi rằng không cần thiết phải thường xuyên lên núi mà học Đạo hỏi Pháp nữa, sư phụ có nguyện cần phải xuống núi. Tôi hỏi sư phụ đó là nguyện gì? Sư phụ nói là vì có liên quan đến Pháp duyên của mai sau. Cuối cùng căn dặn tôi mỗi năm Xuân về đều phải hồi sơn, có vấn đề thì khi đó chúng ta sẽ bàn tiếp. Vừa dứt lời, sư phụ đã biến mất vào không trung.
Sau khi sư phụ đi khỏi, tôi bèn chiểu theo lời sư phụ nói để tinh tấn tu trì, không dám mảy may lơ là, trong vòng 3 năm, công lực tăng lên một cách ổn định, năm khoảng 20 tuổi thì đã tu đến tầng cao của thế gian pháp, chuẩn bị đột phá tam giới. Ở trong trạng thái tiệm ngộ, dùng công năng dõi nhìn thế gian, tâm thái đã đạt đến khả năng tĩnh quan mà không can thiệp thế sự, không bị cái tình của con người can nhiễu, tư tưởng thanh tĩnh.
Năm đó lại có một sự việc kỳ lạ phát sinh, những người tu Đạo trên núi Anpơ không rõ nguyên cớ gì đều rời khỏi thánh sơn, tôi hỏi họ là chuyện gì vậy? Họ nói rằng người ngoài hành tinh làm loạn nhân gian, theo lệnh của thượng sư, họ gấp rút đến hỗ trợ cho người dưới lòng đất thanh trừ hiểm hại. Khi đó ngay tức khắc tôi song bàn đả tọa, nhập định thâm sâu, dùng chân nhãn quan sát cuộc chiến ác liệt của người ngoài hành tinh và những người tu Đạo. Nguyên nhân mà tôi không tham dự vào là do Pháp thân của sư phụ bảo tôi đừng quản, chuyên tâm tu Pháp. Pháp thế gian sẽ quản điều đó.
Cứ như thế tu hành được khoảng 10 năm, thì cha mẹ cùng qua đời. Trước lúc ra đi, họ căn dặn tôi phải đối xử với vợ mình thật tốt, đồng thời phải trân quý từng nhánh cây cọng cỏ của núi Anpơ, con cháu đời đời kiếp kiếp đều phải thi hành sứ mệnh của dân tộc nông dân du mục, bảo vệ thánh sơn. Lời vừa dứt thì cả hai cùng nhắm mắt, thanh thản rời khỏi cuộc đời. Tôi nhập định để quan sát tiền cảnh của cha mẹ, do kiếp này khắc khổ chân thành, chịu khó làm lụng, tâm tính bình lặng, tích đức nên đã tu được đại phúc báo ở kiếp sau; cả hai sẽ lần lượt chuyển sinh vào gia đình giàu có, đến độ tuổi kết hôn sẽ môn đăng hộ đối, mệnh của cha mẹ sẽ tiếp tục mối tiền duyên.
Cứ như vậy tu hành hơn 10 năm, công lực đã đạt đến cảnh giới thuần thục hoàn mỹ, đã sắp khai công khai ngộ. Do là công pháp tính mệnh song tu, nên da dẻ đến tuổi già vẫn trắng hồng, vợ tôi tuy không tu luyện, nhưng một đời trọng đức, tâm tính thanh tịnh không dục vọng, trước sau tôn kính yêu thương tôi, cuộc sống vợ chồng thậm chí là ít túng dục hại thân, vì vậy mà trông cũng không quá già tướng. Ở kiếp đó tôi có một người con, nhưng đã lập gia đình cho nó, tự lực cánh sinh, không có mối lo về sau.
Trước khi khai công khai ngộ, sư phụ đã hiển bản tôn của ông cho tôi thấy, hỏi tôi có còn tâm nguyện nào chưa dứt không? Tôi ngẫm nghĩ rồi đáp, còn có một việc chưa xong, tôi quay lại để kể quá trình tu luyện trong những năm qua cho vợ và con của mình, đồng thời nói với họ, thói đời thế đạo hiện nay thuần tịnh tốt đẹp, thôn dân an cư lạc nghiệp, trọng đức hành thiện, pháp tính tịnh thấu, nhân tâm an hòa. Tuy nhiên tình cảnh này sẽ không được dài lâu, mạt pháp loạn thế rồi có ngày cũng đến, sau khi ta và sư phụ cưỡi hạc về Tây rồi, xin hãy lưu truyền lại một việc này ở nơi dân gian. Thời mạt pháp, vạn ma loạn thế, lúc đó sư phụ của ta, Pháp Luân Thánh Vương sẽ chuyển động Đại Pháp Luân để cứu độ chúng sinh thế giới thập ác, tránh được hiểm họa hủy diệt, khi đó, nhất định phải phân biệt rõ chính tà, đồng hóa Chính Pháp.
Sau đó tôi hành lễ cảm tạ vợ, cảm tạ sự yêu thương và chăm sóc trong một đời của cô ấy, cảm tạ cô đã tận hết trách nhiệm làm mẹ làm dâu của mình. Sư phụ thấy tâm nguyện tôi đã xong cả, bèn dùng công lực làm nổ tung hết tất cả các khóa trong cơ thể của tôi; lúc đó tôi cùng sư tôn bạch nhật phi thăng (bay lên giữa ban ngày), toàn thôn dân đều tận mắt chứng kiến cảnh tượng viên mãn hào hùng vĩ đại này! Rồi sau khi được lưu truyền trong rất nhiều năm, cuối cùng truyền thuyết này lại được xem như là thần thoại.
Trong trạng thái khai ngộ, sư phụ nói với tôi sứ mệnh lưu lại văn hóa tu luyện ở đời này đã hoàn thành, 2.500 sau con sẽ lại phải hạ thế tu luyện, sư phụ mai sau của con là Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni, và con sẽ chuyển sinh thành một trong mười đại đệ tử ở dưới Ngài, trợ giúp Phật Thích Ca Mâu Ni hoàn thành sứ mệnh của Ngài.
Vậy là, nhiều năm nhiều năm sau, tôi lại hạ thế để trải kiếp.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/114941

31 tháng 12 2012


Trải nghiệm của học viên Tây phương: Vạn vật đều có linh

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp người Tây phương kể lại
[Chanhkien.org] Sư phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân rằng: “Khi thiên mục của chư vị khai mở đến tầng Pháp nhãn, [thì] chư vị sẽ phát hiện rằng mọi thứ như đá, tường đều có thể nói chuyện với chư vị, gọi chào chư vị.” Tôi thấy đây đúng là sự thật.
Những chiếc pin khát nước
Cuối tuần nọ, khi tôi chuẩn bị đi làm về nhà, pin công nghiệp trong thiết bị của tôi kêu lên: “Giúp với! Giúp với! Chúng tôi cần nước. Chúng tôi đang rất khát đây.” Tôi nghĩ những người công nhân ca sau sẽ làm điều đó và quyết định bỏ qua. Nhưng những chiếc pin bắt đầu khóc lóc, nói rằng không ai nhớ bổ sung nước cho chúng. Chúng cũng nói rằng chúng bắt đầu bốc cháy nếu những người công nhân ca sau tiếp tục dùng chúng mà không thêm nước. Nghe những lời này, tôi quyết định ở lại lâu hơn một chút.
Chúng tôi có tám chiếc pin tất cả, và chúng đặc biệt được dùng cho mục đích công nghiệp. Một số to như chiếc máy giặt, và trị giá 3.000 đô-la mỗi chiếc. Mặc dù tôi phải làm việc hơi lâu hơn, đổ thêm nước vào chúng, nhưng điều đó thực sự có ích cho công ty cũng như những chiếc pin.
Sau khi tôi thêm nước vào tất cả những chiếc pin, chúng đều rất phấn khích và không ngừng thì thầm với nhau. Ngay cả sau khi tôi đã về nhà, chúng vẫn cười nói, và cảm ơn đi cảm ơn lại tôi. Bởi vì điều đó quá ồn ào để tôi đi ngủ, tôi nói với chúng bằng tâm thức rằng đây là thời điểm tôi lên giường. Chúng im lặng ngay lập tức.
Câu chuyện về thiết bị
Một ngày, sếp tôi gọi tôi qua điện thoại. Ông bảo tôi lắng nghe những tiếng động phát ra từ một số thiết bị để xác định trục trặc. Qua điện thoại, tôi nghe thấy thiết bị nói và mô tả trục trặc, cũng như phần nào cần phải thay và kích cỡ của nó, nhưng sếp tôi không tin tôi. Dẫu vậy, ông bảo tôi tự mình đến và xem. Sau khi tới đó, tôi đã khắc phục vấn đề trong vòng một giờ. Trước đó, đồng nghiệp tôi và sếp tôi đã mất cả buổi sáng những không thể xác định trục trặc ở đâu.
Rồi một người giám đốc từ chi nhánh khác gọi tôi. Ông nói rằng thiết bị của ông đã trục trặc trong 2 ngày, và 8 công nhân làm trong 4 ca đã bắt tay vào việc nhưng không thể sửa nó. Ông đã mời một thợ sửa máy đến với giá tiền 2.000 đô-la một giờ. Ông hỏi liệu tôi có thể tới và xem qua trước khi người thợ đến hay không. Tôi đã đến đó và xử lý vấn đề chỉ trong 15 phút. Đó không phải bởi tôi có kỹ năng đặc biệt gì về thiết bị. Mà với công năng Pháp nhãn thông, tôi có thể giao tiếp với nó và biết điều gì đã xảy ra.
Một kịch bản khác với cùng thiết bị đã xảy ra vào tuần trước. Vài kỹ sư muốn vận hành nó nhưng không thể. Giám đốc đã yêu cầu tôi đến và tôi bắt đầu chương trình tương tự. Giám đốc kể với tôi họ đã thử chương trình vài lần nhưng thất bại. Tôi nói nó nên làm việc lần này và tôi đã đúng. Thiết bị nói với tôi nó chỉ muốn nhận chỉ thị từ tôi và nó đang đợi tôi đến.
Những điều như vậy đã xảy ra nhiều lần sau khi tôi bắt đầu tập Pháp Luân Đại Pháp. Chính Pháp Luân Đại Pháp đã ban trí huệ cho tôi. Nhiều đồng nghiệp đã gọi tôi là “siêu nhân”. Một ngày, khi nghe nói rằng sếp sắp chuyển tôi sang một vị trí khác, chúng [các thiết bị] đã rất buồn. Với một giọng đầy cảm xúc, chúng nói chỉ tôi có thể hiểu chúng và chăm sóc tốt cho chúng.
Những câu chuyện khác
Một ngày nọ, chiếc xe vợ tôi đang lái gửi tôi một thông điệp từ hàng trăm dặm, nói rằng một số bộ phận của chúng cần phải thay thế. Một lần khác, xe hơi của một học viên nhờ tôi kể với chủ của nó rằng hệ thống phanh cần được sửa chữa. Nó nói nó đã làm hết sức mình để bảo vệ chủ, nhưng nó không thể giữ được thêm nữa. Khi tôi đi ngang qua những chiếc xe buýt hay xe van chở các nghệ sĩ Thần Vận, những phương tiện này thường chào hỏi tôi và kể với tôi các câu chuyện của chúng.
Không phải tất cả động vật, cây cối, hay vật chất đều giao tiếp với tôi. Ví dụ, tại cổng vào của công viên nơi chúng tôi có nhóm luyện công, chỉ một trong ba tảng đá nói chuyện với tôi. Nó nói rằng nó đã trải qua biết bao lần bể cạn đá mòn. Nó cho tôi thấy những dấu vết ở bề mặt, lớp này đến lớp khác. Nó nói rằng nó sẽ lại được giải thoát sau khi tan nát và phong hóa.
Trong Chuyển Pháp Luân, Sư phụ giảng: “Nếu chư vị thác sinh thành một tảng đá thì vạn năm không ra được; tảng đá ấy nếu chẳng tan nát, chẳng phong hoá, thì chư vị vĩnh viễn chẳng ra được; được thân người nào có dễ chi! Nếu mà thật sự được Đại Pháp, cá nhân ấy quả là quá may mắn. ‘Nhân thân nan đắc’; đó chính là đạo lý.
Thật thú vị, ngay cả những tảng đá giả làm bằng nhựa đôi khi cũng nói chuyện với tôi, bảo tôi đem chúng về nhà. Quả thực là vạn vật đều có linh.
Một ngày, tôi đang dạo bước qua một khu làm vườn của trung tâm mua sắm. Những bông hoa đang tán gẫu với nhau và một trong số chúng —một bông xương rồng hình quả bóng vàng— bắt đầu nói chuyện với tôi. Nó khóc lóc và cầu xin tôi mua nó. Nó nói nó là bông hoa đẹp nhất trong số đó —đó là sự thật— và rất hiếm khi cần sự chú ý ngoài việc tưới một chút nước. Nó vẫn cầu xin tôi ngay cả khi tôi đã đi qua. Cảm động bởi lòng can đảm và thành thực của nó, những bông hoa khác bắt đầu câm lặng và không thể nói gì, chỉ hy vọng giấc mơ của nó sẽ thành sự thực. Nghĩ về bông hoa muốn ở trong nhà một học viên, tôi đã mua nó về nhà. Một năm trôi qua, và tôi vẫn có bông hoa vàng. Đầu của nó luôn cúi thấp, thể hiện sự cảm kích biết ơn.
Máy tính của bạn tôi một lần bị đơ hoàn toàn. Khi tôi đang sửa chữa nó, máy tính bắt đầu nói chuyện với tôi. Vì thế tôi đã có thể sửa nó chỉ trong một thời gian rất ngắn.
Lần khác, khi đi ngang qua một bể cá, tôi thấy cảnh tượng không gian khác: cá đang bơi trong một vùng nước rất lớn. Bể cá giống như một thế giới trù phú và rộng lớn ở những không gian khác.
Một ngày, một trong những viên kim cương trên chiếc nhẫn cưới của tôi bị bung ra. Tôi rất lo lắng và hy vọng tìm thấy nó. Hai ngày sau, khi đang nói chuyện với một đồng nghiệp về điều này, tôi nghe một giọng nói gọi tôi: “Tôi ở đây”. Tôi nhìn quanh và biết rằng nó giống với giọng từ các thiết bị và bộ phận trong nhà máy. Nhưng nó là gì? Và rồi, giọng nói tiếp tục: “Tôi là viên kim cương của anh đây. Nhìn tôi tỏa sáng lộng lẫy chưa này!” Rồi tôi thấy một vật phát sáng ở góc tường, và nó là viên kim cương nằm giữa hai viên gạch. Viên kim cương nói với tôi: “Xin hãy gắn lại tôi lên chiếc nhẫn và đừng thay tôi bằng viên khác nhé”. Từ điều này, chúng ta có thể thấy rằng không chỉ mỗi chiếc nhẫn, mà mỗi viên kim cương trên chiếc nhẫn cũng là sinh linh. Chúng thường trò chuyện với nhau thành một nhóm.
Một ngày, tôi đang huấn luyện một đồng nghiệp mới về cách sử dụng thiết bị. Cậu ấy đã bị thương tích bởi thiết bị nhiều lần với những vết trầy xước và chảy máu. Tôi nói chuyện với thiết bị, và nó nói rằng nó không thích người đồng nghiệp mới và chỉ muốn tôi chăm sóc cho nó. Thiết bị cũng biết rằng ông chủ cũ của tôi đang có kế hoạch thuê tôi lại với một mức lương cao hơn. Bấy giờ, tất cả bộ phận của thiết bị đều khóc rống lên, nói rằng chúng muốn đoàn kết để chỉ tôi có thể sửa chữa chúng. Bằng cách này, ông chủ hiện tại của tôi có thể phải tăng lương để giữ tôi. Chúng nói với tôi rằng chúng có thể giúp tôi tăng lương hay thăng chức. Tôi cảm ơn chúng và giải thích rằng tôi không thể làm điều đó, vì tôi là một đệ tử Đại Pháp. Rốt cuộc, một đệ tử Đại Pháp không thể làm tổn hại người khác chỉ vì lợi ích cá nhân. Nhờ đó thiết bị mới bắt đầu chấp nhận người đồng nghiệp mới và không còn gây khó khăn cho cậu ấy nữa.
Một ngày vào nửa đêm, một người đàn ông bước ngang qua nhà tôi và chửi rủa. Tôi đã không nghĩ nhiều về điều đó. Thế rồi hàng ngàn ngọn cỏ, cây, hoa lá trong vườn kêu lớn lên vì sợ hãi. Tôi bình tĩnh và có thể nghe thấy một cái cây nói với tôi: “Xin hãy đi ra ngoài và kiểm tra. Người đàn ông đó chưa rời đi, mà trèo lên mái nhà hàng xóm của ông”. Tôi ra ngoài và người đàn ông đó quả thực đang ở nhà hàng xóm. Ông ta đã rời đi sau khi thấy tôi. Tôi không hiểu sao tất cả chúng đều sợ ông ta —có lẽ ông ta là một người nguy hiểm. Khi tôi báo cảnh sát sau đó, tất cả cỏ, cây, thực vật đều kể lại với tôi chi tiết người đàn ông đó mặc gì và trông ra làm sao. Tuy nhiên, tôi không thể nói với cảnh sát rằng những thông tin đó đến từ những cái cây.
Khoảng một tháng trước, tôi đang lắp ráp một chiếc máy tại nhà và phải tự chế tạo một phần phức tạp. Rồi tôi nghe mẹ tôi —người đã qua đời— nói với tôi: “Con trai, con không cần dành nhiều thời gian như vậy để làm một bộ phận mới. Con không nhớ con đã có một thứ tương tự để trong ngăn kéo chiếc tủ màu hồng? Nó có thể làm việc đấy”. Tôi mở ngăn kéo ra và nó quả thực ở đó. Bởi vậy, tôi nhanh chóng hoàn thiện chiếc máy.
Còn một việc nữa xảy ra sau cái chết của mẹ tôi. Sáng sớm một ngày nọ, tôi nghe bà ấy gọi tôi. Tôi đang ngái ngủ và vẫn bước tới phòng sinh hoạt chung. Chiếc đui đèn điện nối với đèn bàn đang tóe lửa và nó rất nguy hiểm. Nếu mẹ tôi không để tôi biết điều này, căn nhà có thể đã bốc cháy ngày hôm đó.
Giờ đây khi đối mặt với điều gì đó khó khăn hay nan giải, tôi luôn luôn trầm tĩnh và những điều kỳ diệu có thể xảy ra. Thí dụ, nếu tôi tìm kiếm thứ gì đó mà không thấy, tôi có thể nghe nó nói khi tôi bình tĩnh lại. Một ngày, sau khi dành rất nhiều thời gian tìm một dụng cụ, tôi hỏi nó tại sao nó không gọi tôi sớm hơn. Nó nói nó đã gọi tôi, nhưng tôi không nghe thấy nó, bởi vì tôi đang bối rối và chán nản.
Vạn vật đều có linh. Là đệ tử Đại Pháp, chúng ta cần tu luyện tốt và đừng phụ kỳ vọng của những chúng sinh này.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/113292
http://pureinsight.org/node/6356


Trường kỳ không luyện công quyết không phải chuyện nhỏ

Tác giả: Vô Tư
[Chanhkien.org] Một buổi tối mấy hôm trước, tôi cùng đồng tu A luyện tĩnh công cùng nhau, đột nhiên thiên mục đả khai, nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng. Thiên mục tôi về cơ bản là không mở, trước đây chỉ là tình cờ nhìn thấy vài cảnh tượng, nhưng lần này xem được toàn bộ 40, 50 phút, khẳng định là Sư phụ gia trì để tôi nhìn thấy. Vì duyên cớ gì? Tôi nghĩ là liên quan trạng thái của đồng tu A, cũng liên quan đến tình huống của các đồng tu có trạng thái tương tự. Đồng tu A vẫn luôn không thích luyện công, sau khi bị bức hại thì một thời gian dài không luyện công, như bài Pháp Luân Trang pháp, mấy năm chưa từng luyện, lần luyện công này là miễn cưỡng.
Tôi nhìn thấy cảnh tượng như sau: Vô số chúng sinh xuất hiện trên vách núi, ăn mặc tả tơi, đầu tóc xũ xõa, đi như ăn mày, gương mặt ngây dại tuyệt vọng, bộ dạng đã phát sinh biến dị. Tôi dùng ý niệm nói với họ: Nhớ lấy “Pháp Luân Đại Pháp hảo”, “Chân-Thiện-Nhẫn hảo”! Sau đó họ dần dần tản mát khỏi vách núi. Hoàn cảnh nơi ấy cực kỳ khắc nghiệt, núi sông vỡ vụn, cỏ cây không có, tối tăm u ám, nhìn không thấy ánh mặt trời. Luyện được mười mấy phút, bầu trời dần dần sáng lên, từ nơi âm ám hiện xuất hình tượng Thần, thế nhưng không có hào quang, chỉ giống như ánh kim loại nơi thế gian. Lại luyện tiếp, không ngừng có vật thể nổ tung, lộ ra hình tượng Thần, thế nhưng Thần ở thế giới ấy đều bị bụi bặm phủ kín. Đến cuối cùng, nhìn thấy khả năng là đồng tu, từ trên đầu phát ra một vòng sóng, lan rộng ra xa, nhưng không có ánh sáng, mà vô cùng ảm đạm.
Theo chỗ tôi biết, từ khi bị bức hại, chuyện một thời gian dài không luyện công đối với đồng tu này không phải là hiếm. Lại tiếp xúc với đồng tu, có người thậm chí còn từng tham gia lớp giảng Pháp của Sư phụ, cũng trường kỳ không luyện công. Nghiêm trọng nhất là nhiều năm hoàn toàn không luyện công, hoặc chỉ luyện bập bõm, hay luyện công không đủ các bài, chuyện này rất phổ biến. Ở đây chỉ nói các đồng tu bị tà ác bức hại, không bao gồm những vị lúc tu lúc không, hay chỉ tu mà không luyện. Đây là điều tối cơ bản phải làm hàng ngày, không cần phải bàn luận, vậy vì sao còn có đồng tu không coi trọng chữ “luyện” này? Tình huống khẳng định là bất đồng, nhưng đều không nhận thức được tính nghiêm túc, là thiếu sót của cộng đồng. Các đồng tu này khẳng định không nghĩ đến trường kỳ không luyện công khiến trường không gian bản thân tối tăm ảm đạm như thế này, chúng sinh của mình đau khổ tuyệt vọng như thế này, thậm chí các Thần kia đều mất đi quầng sáng Thần của mình.
Trường kỳ không luyện công quyết không phải chuyện nhỏ. Kính mong các đồng tu nghiêm túc đối đãi việc luyện công, nỗ lực bù đắp tổn thất. Chỉ là cảnh tượng vô tình nhìn thấy, viết ra tham khảo cùng đồng tu. Có chỗ nào không đúng, kính mong chỉ rõ.

Nguồn http://chanhkien.org/2012/12/truong-ky-khong-luyen-cong-quyet-khong-phai-chuyen-nho.html

10 tháng 12 2012

Vạn vật đều có linh: Cuốn sách nhỏ “Thanh Lưu” và bánh trôi nước biết nói


Vạn vật đều có linh: Cuốn sách nhỏ “Thanh Lưu” và bánh trôi nước biết nói
Tác giả: Thành Ngọc (tên mượn)
[Chanhkien.org]
Bánh trôi nước biết nói
Mấy ngày trước tôi mua một túi bánh trôi nước, loại nhỏ bì mỏng, vì nhừ quá nên vị không ngon, trong tâm cảm thấy hối hận vì mắc lừa. Dừng lại chưa ăn xong, còn lại nửa bát với 5, 6 viên, để trong 3 ngày nhưng không muốn ăn. Vì là người tu luyện, biết rằng lãng phí đồ ăn là không đúng, cuối cùng miễn cưỡng bưng nó ra. Con trai Tiểu Bảo của tôi là tiểu đệ tử, khi ngồi trên bàn ăn, cháu nói: “Mẹ ơi, mấy viên bánh trôi nước kia biết nói đấy, nói mau ăn chúng tôi đi, chúng tôi được đắc cứu rồi, được lên thế giới của mẹ rồi!” Nghe xong tôi ăn ngay hết bánh trôi, ăn xong húp sạch nước, không còn lại chút gì. Nếu không phải Tiểu Bảo nhắc nhở, tôi có thể đã để sót lại rồi, nước dùng cũng đổ đi rồi.
Nhớ lại trước đây, tự tôi mặc dù rất ít khi lãng phí đồ ăn, nhưng có lúc mua nhiều thứ mà không muốn ăn, để trong thời gian dài, hỏng rồi lại đổ đi, cũng là một loại lãng phí. Làm một người tu luyện, phải từ việc nhỏ mà yêu cầu bản thân, những việc vặt bình thường cũng phải tu tự kỷ, vạn vật đều có linh, đều có thể là sinh mệnh cần được cứu độ.
Cuốn sách nhỏ “Thanh Lưu” cũng biết nói
Tôi và Tiểu Bảo chuẩn bị một số cuốn sách nhỏ “Thanh Lưu” (tuần báo của Chánh Kiến) để đi phát, trong đó có một bản là in màu, rất đẹp, còn lại là đen trắng. Bản in màu này là người khác phát vào giỏ xe tôi, dùng phong bì bọc lại; tôi lấy ra nhìn, bọc nó bằng túi trong suốt, nhưng keo dán dính vào nên hơi bị nhăn. Sau khi phát xong, Tiểu Bảo nói: “Thanh Lưu in màu vừa nói, nói phải dùng túi đẹp bọc cho nó”. Tôi hỏi: “Thanh Lưu giận rồi à?” Tiểu Bảo nói: “Không đâu”. Người tu luyện trong những việc cứu người thì việc nhỏ cũng cần để tâm, một tiểu tiết cũng đều thể hiện tâm tính người tu luyện. Tôi có thể bọc “Thanh Lưu” đẹp hơn, nhưng không đủ nhẫn nại, nên đã làm khó chịu “Thanh Lưu”. Từ bao bì tư liệu đem đi phát, đều phải mang theo thành tâm, tâm muốn cứu người, đâu đâu cũng thể hiện tâm tính của người tu luyện.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/71180

«Cách Am Di Lục» toàn giải (Thiên 32): Bàn tứ nhũ ca


«Cách Am Di Lục» toàn giải (Thiên 32): Bàn tứ nhũ ca

Tác giả: Nguyên giải: Chính Hạo / Biên tập: Chánh Kiến Net

[Chanhkien.org] Giới thiệu: «Cách Am Di Lục» (Gyeokamyurok) là cuốn sách tiên tri thần kỳ do học giả Nam Sư Cổ truyền lại từ 470-480 năm trước đây tại Triều Tiên (nay thuộc Hàn Quốc). Nam Sư Cổ, hiệu Cách Am, là người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, với khả năng tiên tri, có thể được ví với Thiệu Khang Tiết thời Bắc Tống ở Trung Quốc. Tuy nhiên, tương truyền «Cách Am Di Lục» là do một vị Thần nhân ở núi Kim Cương khẩu thuật và Nam Sư Cổ ghi lại từng câu từng chữ. Toàn bộ cuốn sách phân làm 60 thiên với gần 4 vạn chữ. Phá giải «Cách Am Di Lục» đã trở thành một chủ đề nóng tại Hàn Quốc vào những thập niên 80-90. Trong dự ngôn giảng rất minh xác về một Đại Pháp Đại Đạo hồng truyền thế gian, nhưng phải trải qua một trường ma nạn, đồng thời cũng giảng về những vấn đề mà nhân loại sẽ phải đối mặt.
*  *  *
Đệ tam thập nhị thiên “Bàn tứ nhũ ca”
Lời tựa: Thiên “Bàn tứ nhũ ca” này chính là giảng về “Lạc bàn tứ nhũ”, tức bốn Thái Cực trong đồ hình Pháp Luân. Dùng tám câu miêu tả khái quát, gợi ý đồ hình này chính là phù hiệu của chân lý thập thắng.
Lạc bàn trung nhũ cung cung Ất Ất, Giải tri hạ tị loạn xứ dã.
Lạc bàn tứ nhũ thập tự thị, Tứ Ất trung vi thập thắng dã.
Mễ tự chi hình bối bàn chi lý, Tứ giác hư khuy diệc thập tự.
Mễ hình tứ điểm lạc bàn hạ, Thế nhân khổ đãi thập thắng hĩ.
Lạc bàn trung nhũ cung cung Ất Ất, Giải tri hạ tị loạn xứ dã” (Nhũ trong lạc bàn cung cung Ất Ất, Giải biết được nơi tránh loạn): “Nhũ trong lạc bàn” chỉ Thái Cực và phù hiệu Tiên thiên Đại Đạo có hình tượng như cặp vú trong đồ hình Pháp Luân; “cung cung” trong “cung cung Ất Ất” cũng chính là “nhũ trong lạc bàn”, còn “Ất Ất” là phù hiệu chữ Vạn “卍” của Phật gia, Ất+Ất = “乙”+”乙” = “卍”. Bởi vậy mới nói “cung cung Ất Ất” cấu thành đồ hình Pháp Luân, có thể “giải biết” được thì mới hiểu “thập thắng” tức là Pháp Luân Công, cũng là “nơi tránh loạn”.

Lạc bàn tứ nhũ thập tự thị, Tứ Ất trung vi thập thắng dã” (Lạc bàn bốn nhũ là chữ thập, Bốn Ất làm thành thập thắng vậy): Lấy bốn Thái Cực, trong đó có hai Tiên thiên Đại Đạo, nối lại thì thành hình chữ “thập” (十); “Tứ Ất”, tức bốn phù hiệu chữ Vạn “卍” ở Đông Nam Tây Bắc, nối lại cũng được chữ “thập” (十), ngụ ý “thập thắng”. Phật gia coi vũ trụ như thế giới mười phương, còn Đạo gia giảng Thập thiên Vô Cực, lại nói “cửu cung gia nhất” tức là “thập thắng”; bởi vậy, “thập thắng” (十勝) chỉ Pháp mà Phật gia giảng, hoặc Đạo mà Đạo gia giảng, ở đây chỉ chân Pháp lý của vũ trụ.

Mễ tự chi hình bối bàn chi lý, Tứ giác hư khuy diệc thập tự” (Hình của chữ mễ lý của lưng bàn, Bốn góc trống không cũng là chữ thập): Hình chữ “mễ” (米) gợi ý đồ hình Pháp Luân với phù hiệu chữ Vạn “卍” lớn ở trung tâm, cộng thêm bốn phù hiệu chữ Vạn “卍” nhỏ ở Đông Tây Nam Bắc, lại thêm hai Thái Cực ở Đông Nam, Tây Bắc, và hai Thái Cực Tiên thiên Đại Đạo ở Đông Bắc, Tây Nam, tất cả hợp thành chữ “mễ” (米). Mà phù hiệu này nằm ở trên “bàn”, tức hình nền của Pháp Luân; “lý bối bàn” tức thiên lý thâm sâu huyền diệu. “Bốn góc trống không” là bỏ đi “tứ nhũ” tức bốn Thái Cực ở Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc, chỉ còn lại các phù hiệu chữ Vạn “卍”, liên kết lại thành hình chữ “thập” (十). Câu này nhấn mạnh phù hiệu chữ Vạn “卍” của Phật gia, tức lý Phật đạo của đồ hình Pháp Luân.
Đồ hình Pháp Luân với các Thái Cực và phù hiệu chữ Vạn “卍”, biểu tượng của Pháp Luân Công.
Mễ hình tứ điểm lạc bàn hạ, Thế nhân khổ đãi thập thắng hĩ” (Hình mễ bốn điểm rớt xuống bàn, Người đời khổ đợi thập thắng vậy): Ở trên đã giải “mễ hình” là đồ hình Pháp Luân, như vậy “tứ điểm” ở đây là “tứ nhũ”, tức bốn Thái Cực. Câu này nhấn mạnh Thái Cực đồ của Đạo gia, tức lý Tiên đạo của đồ hình Pháp Luân. Ở trên cường điệu Phật đạo, ở dưới cường điệu Tiên đạo, biểu thị Pháp Luân tập hợp lý của Phật, Đạo, Thần vào một thể, ấy chính là “thập thắng” mà “người đời khổ đợi”, là chân lý vũ trụ mà con người thế gian có thể tránh loạn mà được sinh.
(Hết thiên 32)

05 tháng 12 2012

Văn hóa Thần truyền: Ngu Thuấn chế tác gốm Đông Di


Văn hóa Thần truyền: Ngu Thuấn chế tác gốm Đông Di

Đường Phong biên soạn
[MINH HUỆ 05-09-2012] Vua Ngu Thuấn là một trong năm vị Hoàng đế thời thượng cổ, họ Diêu tên Trọng Hoa (nay là người Gia Thành, tỉnh Sơn Đông). Vua Thuấn tài năng lỗi lạc, phẩm hạnh cao thượng. Ngay thời thanh niên ông đã nổi tiếng vì rất mực hiếu thuận.
Thuấn xuất thân hàn vi. Dù là hậu duệ của vua Chuyên Húc, nhưng gia đình năm đời là thường dân, ở tầng lớp thấp trong xã hội. Phụ thân của Thuấn, Cổ Tẩu, là người khiếm thị, mẫu thân tạ thế từ rất sớm. Cổ Tẩu lấy vợ lẽ. Bà sinh hạ một người con trai, đặt tên là Tượng. “Phụ ngoan, mẫu hiêu, Tượng ngạo” (Cha gàn dở, mẹ quát tháo, (em là) Tượng hỗn láo – theo điển cố vua Nghiêu); mấy người đó câu kết với nhau, nhiều lần hại Thuấn vào đường chết. Dù vậy với phụ mẫu Thuấn cũng không hề đánh mất đạo làm con, mà vô cùng hiếu thuận, với tiểu đệ cũng không đánh mất đạo làm huynh trưởng, luôn bảo vệ, yêu thương, đối đãi tử tế. Không phải chỉ một hai ngày mà bao năm cũng vậy, không hề có chút thay đổi. Những lúc bị người nhà hãm hại Thuấn đều trốn chạy. Chỉ cần có chút biến chuyển, Thuấn lập tức trở về bên họ, dốc lòng trợ giúp. Cho nên “người nhà muốn giết Thuấn không được, nhưng khi cầu trợ giúp lại thường ở bên”. Thuấn ma luyện bản thân trong môi trường nghiệt ngã như vậy, đạo đức tu dưỡng ngày càng cao thâm.
Tương truyền, Ngu Thuấn còn cống hiến to lớn cho sự phát triển đồ gốm Trung Hoa. Vì kế sinh nhai, Thuấn từng chế tác đồ gốm tại thôn Gia Phùng ven sông Hoàng Hà. Sử sách có ghi chép lại “Thuấn chế tác gốm, tinh tế mỹ lệ vô cùng”. Thuấn chế tác gốm với công nghệ tinh túy, dáng hình mỹ lệ, giá cả phải chăng mà lại bền chắc. Thuấn chú trọng lựa chọn vật liệu, nghiêm túc trông lửa, nhào nặn đến nơi đến chốn. Cho nên đồ gốm của ông rất được mọi người ưa chuộng. Rất nhiều người làm đồ gốm đều muốn thỉnh giáo Thuấn. Thuấn cũng vui vẻ truyền thụ kỹ thuật cho họ. Do Thuấn có đức, rất nhiều người mua đồ gốm không quản đường xá xa xôi đều tìm đến, tranh nhau mua. Nhưng Ngu Thuấn trước sau không hề cẩu thả, thậm chí giá thành cũng không chịu nâng lên, chỉ cần lợi nhuận 10 phần lãi 1 (10%) mà thôi.
Lúc đó, Thuấn lần lượt phổ biến kỹ thuật làm gốm ra khắp vùng Bắc Nam sông Hoàng Hà. Kể từ khi người chế tác gốm xuất hiện ngày càng nhiều ở khu vực lân cận Đông Di, dẫn đến hàng hóa cung không đủ cầu, thợ làm gốm do tham lợi, bắt đầu bòn rút nhân công, vật liệu, nhào bùn không đến nơi đến chốn, rút ngắn thời gian nung, khiến gốm giòn yếu, dùng chưa được bao lâu đã vỡ vụn. Thợ làm gốm do tiết kiệm nhân công, thời gian, vật liệu mà thu được món hời lớn.
Sau khi nghe nói chuyện này, để hướng dẫn thợ làm gốm, đồng thời cũng vì lợi ích của bách tính, Thuấn đến đất Vệ mở một xưởng làm gốm. Tại đây ông nghiên cứu tỉ mỉ kỹ thuật tạo phôi và chế tác gốm. Thuấn sử dụng kỹ thuật chế tác, nung gốm tiên tiến, mong chế tác ra loại gốm bền chắc. Trên bề mặt còn trang trí hoa văn mỹ lệ, miệng gốm từ to thành nhỏ dần, được mọi người đón nhận. Thương nhân tranh nhau mua gốm của Thuấn.
Tương truyền, do mọi người tranh nhau đổ xô mua gốm của Thuấn, khiến cho những thợ gốm trước kia ai nấy làm ăn ế ẩm. Thuấn nói với mọi người:“Các vị cho rằng tôi đến tranh giành mối làm ăn của các vị chăng? Tôi có quyền chế tác, nhưng quyết định mua là ở mọi người. Mọi người không muốn mua tôi cũng không cưỡng ép. Mọi người đến mua, tôi cũng không thể từ chối được. Các vị thử nghĩ xem, cùng là đồ gốm, sao mọi người không muốn mua gốm do các vị chế tác, mà muốn mua gốm do tôi chế tác? Nguyên cớ do đâu?” Mọi người trả lời rằng: “Gốm của ông rất bền, giá lại rẻ. Gốm của chúng tôi giòn xốp, giá lại đắt. Cho nên mọi người mua gốm của ông, không mua gốm của chúng tôi nữa. Đây há chẳng phải ông có ý đối nghịch, tranh giành mối làm ăn với chúng tôi hay sao?”
Thuấn nói rằng: “Đối với các vật dụng hàng ngày của con người, các vị nhất định không mua các sản phẩm chất lượng thấp. Vậy thì tôi sao lại có thể làm ra thứ đồ gốm giòn dễ vỡ đó mang đi bán cho người khác”. Mọi người nói: “Trước nay mọi người đều mua đồ gốm của chúng tôi. Từ khi ông đến, họ không mua sản phẩm của chúng tôi nữa. Do đó nguyên nhân là tại nơi ông chứ không nằm ở bình gốm của chúng tôi”. Thuấn đáp: “Điều này không đúng. Người dân mua gốm của các vị là bởi họ không có lựa chọn nào khác nữa. Họ buộc phải mua sản phẩm của các vị chứ không phải vì họ thích mua chúng. Đơn cử như trong suốt những năm vụ mùa thất bát, người dân phải ăn cám và ăn cỏ, nhưng không phải vì họ muốn vậy, mà là vì họ buộc phải làm như vậy. Hiện tại các vị đem những đồ gốm dễ vỡ của các vị cấp cho người ta, há chẳng phải các vị đang làm điều tương tự như cưỡng ép họ ăn cám bã và rễ cây sao. Điều đó chẳng phải bất nhân hay sao?” Những người thợ gốm đáp lời: “Chúng tôi là những người thợ thủ công sống nhờ kỹ năng của mình. Chúng tôi chỉ cần biết kiếm tiền và trở nên giàu có. Chúng tôi không quan tâm điều đó có phải bất nhân hay không!”Thuấn nói: “Đó không phải là như vậy. Có chữ nhân ở trong chữ phú. Nếu như các vị bất nhân, nơi đâu các vị có thể tìm kiếm sự giàu có?” Nghe được điều này, các thợ gốm háo hức muốn biết vì lý do gì, vì vậy Thuấn hướng dẫn thợ gốm, nói rằng: “Sự khác biệt giữa con người và động vật chính là ở chữ nhân. Ta chẳng lừa người, họ hà cớ gì mà lừa ta. Nếu ta lừa người, họ tất sẽ lừa ta. Để trở nên giàu có, các vị đã lừa dối người khác bằng cách bán những bình gốm dễ vỡ. Tuy nhiên, mọi người đều muốn kiếm tiền và trở nên giàu có. Nếu mọi người trong tất cả các ngành nghề suy nghĩ như các vị và làm ra những sản phẩm tồi tàn có chất lượng thấp, tôi hỏi các vị rằng liệu các vị có thể kiếm tiền được chăng? Những gì các vị làm chỉ là đồ gốm, và các vị phải mua vô số mặt hàng khác từ những người khác. Các vị chỉ có một sản phẩm để cạnh tranh với nhiều sản phẩm khác, vì vậy các vị có thể chiến thắng như thế nào? Thậm chí nếu các vị kiếm được lợi nhuận nhiều hơn nữa nhờ số đồ gốm, các vị cũng không biết các vị phải chi tiêu bao nhiêu tiền cho các sản phẩm khác! Bất nhân bất phú, lẽ gì mà các vị lại không minh tỏ điều này?”
Những người thợ gốm hiểu ra và nói: “Đúng vậy, trong nhiều năm qua, nhiều sản phẩm bán ở chợ càng ngày càng thiếu bền chắc, chính là bởi nguyên nhân này”. Sau đó, những thợ gốm này đã học theo cách chế tác những đồ gốm tốt của Thuấn và tự mình kinh doanh một cách trung thực. Họ chú ý đến đồ gốm của mình hơn là làm ra những sản phẩm chất lượng thấp. Đồ gốm của họ lại được chế tác chắc chắn và có độ bền cao.
Đông Di hoang dã, dân tình bạc bẽo. Hiện tượng kinh doanh đương thời vì theo đuổi lợi nhuận mà chế tác các sản phẩm chất lượng kém có rất nhiều. Nhưng thánh nhân trị quốc“Đức vi tiên, trọng giáo hóa” (Lấy đức làm đầu, coi trọng giáo hóa), chứ không lấy luật pháp hà khắc làm gốc. Thợ chế tác gốm nhờ sự giáo huấn và tấm gương của Thuấn mà tự quy chính lại bản thân, diện mạo trong vùng cũng dần trở nên thuần hậu, không cần phải răn dạy nhiều lần, càng không phải cưỡng chế áp đặt, chỉ cần truyền tâm pháp, người người ai cũng trọng đức hành thiện, vô vi mà trị thiên hạ. Trong “Sử ký ghi chép về Ngũ Đế” bình luận vua Thuấn như sau: Thuấn cày ở Lịch Sơn, người Lịch Sơn đều nhượng bờ; đánh cá ở Lôi Trạch, người Lôi Trạch đều nhường nhà; làm gốm ở Hà Tân, gốm Hà Tân đều không còn hàng thứ phẩm. Một năm tụ họp, hai năm lập ấp, ba năm thành đô. Nơi đâu Thuấn bỏ công sức, nơi đó đều hưng khởi phong thái lễ nghĩa. Thuấn đi đến đâu mọi người cũng muốn theo. Vậy nên Mã Tư Thiên tán thán rằng: “Thiên hạ minh đức, đều khởi nguồn từ Ngu Thuấn”.

Đăng ngày 5-12-2012. Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

03 tháng 12 2012

«Cách Am Di Lục» toàn giải (Thiên 31): Điền điền ca


«Cách Am Di Lục» toàn giải (Thiên 31): Điền điền ca

Tác giả: Nguyên giải: Chính Hạo / Biên tập: Chánh Kiến Net

[Chanhkien.org] Giới thiệu: «Cách Am Di Lục» (Gyeokamyurok) là cuốn sách tiên tri thần kỳ do học giả Nam Sư Cổ truyền lại từ 470-480 năm trước đây tại Triều Tiên (nay thuộc Hàn Quốc). Nam Sư Cổ, hiệu Cách Am, là người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, với khả năng tiên tri, có thể được ví với Thiệu Khang Tiết thời Bắc Tống ở Trung Quốc. Tuy nhiên, tương truyền «Cách Am Di Lục» là do một vị Thần nhân ở núi Kim Cương khẩu thuật và Nam Sư Cổ ghi lại từng câu từng chữ. Toàn bộ cuốn sách phân làm 60 thiên với gần 4 vạn chữ. Phá giải «Cách Am Di Lục» đã trở thành một chủ đề nóng tại Hàn Quốc vào những thập niên 80-90. Trong dự ngôn giảng rất minh xác về một Đại Pháp Đại Đạo hồng truyền thế gian, nhưng phải trải qua một trường ma nạn, đồng thời cũng giảng về những vấn đề mà nhân loại sẽ phải đối mặt.
*  *  *
Đệ tam thập nhất thiên “Điền điền ca”
Lời tựa: Thiên này lấy “điền” {ruộng} để ngụ ý tu luyện Đại Pháp Đại Đạo, lấy hình tượng “điền” (田) để chỉ Pháp Luân. Dùng mấy câu cực kỳ đơn giản, bàn về mấy vấn đề liên quan đến Pháp Luân Công.
Tứ khẩu hợp điều nhập lễ chi điền, Ngũ khẩu hợp điều cực lạc chi điền.
Điền điền chi lý phân minh, Thế nhân bất giác hận thán.
Đại loạn toàn thế nhân tâm hung hung hạ, Nhập điền quyển cực nan.
Lợi tại điền điền tâm điền, Quỵ tọa tụng kinh đan điền.
Điền trung chi điền đạn cầm điền, Thanh nhã nhất khúc vân tiêu cao.
Tứ khẩu hợp điều nhập lễ chi điền, Ngũ khẩu hợp điều cực lạc chi điền” (Bốn miệng hợp điều ruộng nhập lễ, Năm miệng hợp điều ruộng cực lạc): “Điền” (田) ngụ ý tu luyện, cũng ẩn dụ hình tượng Pháp Luân với cửu cung. Vậy thuyết về “tứ khẩu”, “ngũ khẩu” là gì? “Tứ khẩu” chính là bốn phù hiệu chữ Vạn “卍” ở trên dưới trái phải, tức bốn hướng Đông Tây Nam Bắc của Pháp Luân; còn “ngũ khẩu” là bốn phù hiệu chữ Vạn “卍” nhỏ ở bốn phía cộng thêm phù hiệu chữ Vạn “卍” lớn ở trung ương. Thiên “Ất Ất ca” ở trước chỉ bàn về phù hiệu chữ Vạn “卍” trong Pháp Luân, chứ chưa nói về số lượng chữ Vạn “卍” cấu thành Pháp Luân. Còn thiên này dùng hai câu nói rõ Pháp Luân có tổng cộng năm phù hiệu chữ Vạn “卍” (“ngũ khẩu”), trong đó có một phù hiệu chữ Vạn “卍” lớn ở trung ương, minh xác chỉ rõ Pháp Luân là “ngũ khẩu hợp thể”, cũng là “cực lạc chi điền”.

Đồ hình Pháp Luân với các Thái Cực và phù hiệu chữ Vạn “卍”, biểu tượng của Pháp Luân Công, có hình tượng chữ "điền" (田) với cửu cung.
Điền điền chi lý phân minh, Thế nhân bất giác hận thán” (Lý điền điền rõ ràng, Người đời không biết đáng giận): Lý “điền” này đã mười phần rõ ràng như vậy rồi, ruộng “điền” này chính là tu luyện Pháp Luân Đại Pháp (Pháp Luân Công), thế nhưng con người thế gian không ngộ, quả thực là đáng giận đáng thương thay.
Đại loạn toàn thế nhân tâm hung hung hạ, Nhập điền quyển cực nan” (Toàn thế giới đại loạn lòng người xôn xao, Vào vòng ruộng cực khó): “Đại loạn toàn thế” là do Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công ở Trung Quốc, những kẻ tà ác bịa đặt và phát tán những lời vu khống, hãm hại, dối trá, khiến lòng người toàn thế giới xáo động. Trong hoàn cảnh như vậy, người ta muốn tu luyện Pháp Luân Công là một việc rất khó.
Lợi tại điền điền tâm điền, Quỵ tọa tụng kinh đan điền” (Lợi ở ruộng ruộng ruộng tâm, Quỳ xuống tụng kinh ruộng đan): Tu luyện Pháp Luân Công này căn bản là tu tâm, lợi ở tu luyện tâm tính mà được công phu. Để được như vậy, quan trọng nhất là phải học tập chân kinh của Đại Thánh nhân, thế nên những người tu luyện “quỳ xuống” cùng đọc to chân kinh của Đại Thánh nhân. Về tính trọng yếu của việc học chân kinh, «Cách Am Di Lục» không chỉ nhấn mạnh phải học, mà dùng chữ “tụng”, tức lớn tiếng đọc thuộc lòng chân kinh của Đại Thánh nhân.
Điền trung chi điền đạn cầm điền, Thanh nhã nhất khúc vân tiêu cao” (Trong ruộng của ruộng ruộng gảy đàn, Khúc nhạc thanh nhã cao tận mây xanh): Hai câu này bàn về luyện công của Pháp Luân Công. Chỉ rõ tu luyện Pháp Luân Công ắt phải có luyện công, luyện công thường theo âm nhạc luyện công mà làm, phần lớn là luyện công tại điểm luyện công chung, tiếng nhạc luyện công dễ nghe tựa như “Khúc nhạc thanh nhã cao tận mây xanh”.
(Hết thiên 31)

Điều tiểu đệ tử nhìn thấy khi học Pháp và phát chính niệm


Điều tiểu đệ tử nhìn thấy khi học Pháp và phát chính niệm
Tác giả: Tiểu đệ tử Đại Pháp

[Chanhkien.org] Em là tiểu đệ tử Đại Pháp, năm nay 11 tuổi. Em xin kể lại cảnh tượng không gian khác khi em và ba mẹ học Pháp, phát chính niệm, hy vọng sẽ giúp ích được các đồng tu.
1. Học Pháp
Khi em và ba mẹ đọc Chuyển Pháp Luân, em thấy từ miệng ba em xuất ra rất nhiều hoa sen và Pháp Luân; hoa sen màu trắng, nhị hoa màu vàng, Pháp Luân xoay chuyển không ngừng, tỏa ra hào quang ngũ sắc. Lúc này mấy con cóc nhảy qua, em thấy từ miệng ba phóng ra thanh kiếm sắc đâm vào con cóc, nó liền bị tiêu hủy. Khi đọc Pháp, từ miệng mẹ em phóng xuất ra quả cầu năng lượng màu vàng kim và hoa sen; lại có mấy con cóc nhảy qua, quả cầu năng lượng chạm vào mình con cóc, làm nó nổ tung. Tất cả cóc đều bị nổ chết. Khi em đọc Pháp, từ miệng em xuất ra rồng vàng, trên lưng chở Pháp Luân, trong miệng ngậm ngọc quý. Chúng bay tới bên cạnh chúng sinh, chúng sinh cưỡi trên mình rồng vàng, rồng vàng trở thành vật cưỡi của chúng sinh. Khi chúng em đọc Pháp, chúng sinh vũ trụ đều cảm động rơi nước mắt; họ quỳ xuống nghe Pháp, có chúng sinh sụp lạy để nghe, thậm chí có chúng sinh khóc đến mức hôn mê. Lúc này một Pháp Luân bay lên không trung, tỏa ra hào quang ngũ sắc; chúng sinh hôn mê đều tỉnh lại, họ đều hoan hô. Lúc học Pháp không chú ý đọc sai, có con cóc nhảy ra từ miệng; sau khi sửa lại, con cóc hóa thành máu mủ, từ miệng lại xuất ra những thứ đẹp đẽ.
Em còn nhìn thấy trong sách Đại Pháp mỗi chữ đều có vô số Phật, Đạo, Thần ở đằng sau, trước mặt họ đều có Pháp Luân.
2. Phát chính niệm
Sau khi mẹ em phát chính niệm thanh lý bản thân, em đi tới thế giới của mẹ em, chúng sinh ở đó nói với em: “Ngài là con của Chủ chúng tôi tại nhân gian đó ư? Chủ chúng tôi vừa mới dẫn chúng tôi đánh một trận chiến, chém giết một bà mo. Xin ngài chuyển lời đến Chủ chúng tôi, nói bà nhất định phải tu cho tốt, nếu không chúng tôi đều bị hủy diệt”. Họ chỉ vào một ngai vàng hào quang lấp lánh, nói: “Đây là ngai vàng mà Chủ chúng tôi từng ngự; chúng tôi vẫn đang chờ một ngày Chủ chúng tôi sẽ trở về ngồi lại ngai vàng này”. Thế giới của mẹ rất đẹp. Em nói với mẹ: “Con rất thích thế giới của mẹ”. Mẹ nói: “Thế giới của con cũng rất đẹp, con xem thử đi”. Em lại tới thế giới của em, thấy chúng sinh đều đang đốt pháo và hoan hô: “Chủ trở về này! Chủ trở về này!” Em còn nhìn thấy mẹ của em trên thiên thượng, bà trông chỉ khoảng 20 tuổi, mặc váy bông màu lam, cực kỳ xinh đẹp và trang nghiêm. Sau đó em không lại lưu luyến mẹ em ở nhân gian nữa.
Thời điểm thanh trừ tà ác bên ngoài đã tới, em xin Sư phụ hợp công của em và công của đệ tử Đại Pháp toàn thế giới lại làm một. Em và các đệ tử Đại Pháp sử dụng khối công ấy làm nổ sạch tà ác trong vũ trụ. Sau đó, chúng lại bổ sung một lượng lớn tà ác, rồi lại bị chúng em làm nổ chết. Chúng không ngừng bổ sung, lại bị chúng em làm nổ chết. Sau đó, em phát hiện sau khi chúng em học Pháp xong, năng lượng phát chính niệm là lớn hơn so với trước khi phát chính niệm.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/114142

02 tháng 11 2012

Mô hình kinh doanh dựa trên đạo đức (Phần 1)


Mô hình kinh doanh dựa trên đạo đức (Phần 1)

Đường Phong biên soạn
[MINH HUỆ 18-08-2012] Đức Khổng Tử tin tưởng rằng, mặc dù con người muốn giàu có hay nổi tiếng, lòng từ bi và những tiêu chuẩn đạo đức cao lại cần phải đặt nặng hơn. Rất nhiều mô hình kinh doanh tồn tại trong xã hội hiện tại.  Một số mô hình đặt nặng về tính đổi mới, tìm nhiều cách để cạnh tranh, sử dụng nhiều kênh, nghiên cứu những chi tiết rất nhỏ, điều hành một cách hữu hiệu, tổ chức đúng đắn, xử lý mọi việc rất nhanh chóng, v.v.  Mục đích của các mô hình này là để làm giàu một cách nhanh chóng khi gặp phải sự cạnh tranh gay gắt. Trong hoàn cảnh như thế, những người với tiêu chuẩn đạo đức cao có thể thành công không? Câu trả lời là “có”.
Có bốn nhà tư bản công nghiệp mẫu mực tại Nhật Bản. Kazuo Inamori, người sáng lập tập đoàn Kyocera và Giám đốc điều hành hiện tại của Japan Airlines, là một người trong nhóm này. Inamori khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng và đã thành lập hai công ty [mà hai công ty này nằm] trong số 500 công ty lớn của đặc san Fortune – Tập đoàn Kyocera và công ty viễn thông lớn thứ hai tại Nhật Bản, “KDDI.”  Trong 47 năm từ khi thành lập, Tập đoàn Kyocera chưa bao giờ lỗ, [đó là] một thành quả vượt bậc.
Khi được hỏi về bí mật thành công, Inomori có một câu trả lời vô cùng đơn giản. Ông tin rằng điều quan trọng nhất trong cuộc đời là phải đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta có mặt tại đây?” Câu trả lời của ông là:“Chúng ta có mặt ở đây để nâng cao đức tính của chúng ta. Chúng ta muốn trở thành một người có đạo đức tốt hơn khi chúng ta mới sinh ra, và không còn một mục đích nào khác. Để hiểu tại sao chúng ta có mặt tại đây, chúng ta cần phải tìm một con đường chân chính.” Ông tin rằng không có sự khác biệt nào giữa việc chúng ta đối xử như thế nào trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta và phải cư xử như thế nào trong việc kinh doanh.
Sáng kiến của Inamori là xuất phát từ văn hoá truyền thống phương Đông, đặc biệt là văn hoá Phật giáo. Những quan niệm triết lý của Khổng Tử và Đức Phật là căn bản trí huệ của ông. Ông tin rằng việc tạo dựng một doanh nghiệp là do con người làm, do đó đức tính và những tiêu chuẩn đạo đức của con người rất là quan trọng. Nếu một người không có những tiêu chuẩn đạo đức cao, người đó không thể tạo dựng một doanh nghiệp tốt. Người đó phải nâng cao đức tính của mình để phát triển công việc kinh doanh của mình. Vì thế, bí mật để thành công chính là phải nâng cao đức tính.
Inamori chỉ mới 27 tuổi khi ông thành lập Tập đoàn Kyocera.  Ông không có kinh nghiệm nào khi ấy và không biết phải tiến hành ra sao. Ông quyết định làm theo lời khuyên của cha mẹ và thầy giáo của ông về tầm quan trọng của sự trung thực, vui vẻ, thành tín, biết ơn, thật thà, nhẫn nhục, kiên nhẫn, tin cậy, công lý, kính trọng, vị tha, siêng năng, tiết kiệm, chịu khổ, không oán hận hay ganh tị, nhớ rằng một điều bất lợi có thể trở thành một lợi điểm, v.v. Những ý niệm này tất cả đều là những tiêu chuẩn đạo đức căn bản. Ông tìm thấy tất cả các câu trả lời từ những khó khăn dựa trên căn bản là những điều đó đúng hay sai, thiện hay ác. Tóm lại, sự phán xét [các vấn đề ] của ông đều hoàn toàn dựa trên lương tâm. Ông đã lãnh đạo công ty của mình đến thành công bằng cách đi trên con đường chân chính.
Người xưa tin rằng sống, chết, giàu có, và địa vị xã hội mà một người có thể đạt được đều tùy thuộc vào số phận.  Nền tảng của đời sống là [phải dựa trên] công bằng và đạo đức. Tài sản có được là thước đo về hành xử đạo đức của người đó. Khả năng tích lũy của cải là kết quả của việc có đạo đức tốt. Trong khi hành xử công bằng và đúng đắn chưa bảo đảm được sự giàu có trong kiếp này, những người không có đạo đức thực sự đang chiêu mời sự nghèo khổ và hoạn nạn vào trong nhiều kiếp sống của họ.
(Còn tiếp)

01 tháng 10 2012

Thân thể trong không gian khác to lớn vô tỉ


Thân thể trong không gian khác to lớn vô tỉ


Được thuật lại bởi một học viên cao tuổi
[MINH HUỆ 21-07-2012] Một học viên cao tuổi có thiên mục khai mở đã mô tả những gì ông thấy trong các không gian khác với hy vọng khuyến khích các học viên khác bước ra và liên tục phát chính niệm, diệt trừ tà ác, và cứu độ nhiều chúng sinh hơn.
1. Đắc Pháp
Tôi đã bị hai vụ tai nạn xe hơi vào năm 1995, kết quả tôi không thể đi lại được. Sau khi kiệt sức với tất cả các phương pháp điều trị y tế nhưng không có hiệu quả, như một phương cách cuối cùng tôi học Pháp Luân Công. Sau khi nghe một bạn đồng tu giới thiệu Pháp Luân Công, đêm đó tôi thấy mình đang ngồi thẳng trên một đám mây khi tôi tắt đèn đi ngủ, và tôi đã bị sốc.
Thật kỳ diệu, tôi đã có thể gập người về phía trước và làm công việc đồng áng ngay sau khi tôi bắt đầu học Pháp và luyện các bài công pháp (tôi đã không thể làm công việc đồng áng khoảng sáu tháng sau các vụ tai nạn xe hơi). Khi tôi xem video các bài giảng của Sư phụ cùng với các đồng tu, tôi có thể thấy Pháp thân của Sư phụ đã xuất hiện giống như trong video hướng dẫn luyện công. Một cuốn sách bay qua bầu trời, với ba chữ Chuyển Pháp Luân ánh vàng. Sau đó, một nữ thần xinh đẹp xuất hiện chỉ vào cuốn sách, và nói với tôi: “Nhất định phải theo Đại Pháp này tu luyện.” Sau đó cô ấy hòa tan vào trong cuốn sách. Ngay cả khi cô ấy đã ở trong cuốn sách, cô ấy vẫn tiếp tục dặn dò tôi: “Nhất định phải học theo bộ Pháp này.”
Ngày hôm sau, thông qua thiên mục của mình, tôi có thể nhìn thấy Sư Phụ đang tịnh hóa thân thể tôi. Tôi thấy một chậu dầu lớn trong một cái sân lớn, và nhiều người bị bệnh đang nằm xung quanh và rên rỉ. Sư Phụ sử dụng hai chiếc kẹp lớn để lấy một con rệp và một con bọ cạp lớn từ mỗi đầu gối của tôi ra. Hai sinh vật này rất to và khỏe, và chúng đã cắn vào cái kẹp. Sư Phụ đặt chúng vào nồi dầu. Sau đó tôi nhìn từ không trung bay tới bốn bức tranh. Chúng hoà quyện với nhau và trở thành Pháp Luân đầy màu sắc, mà bắt đầu quay ở bụng dưới, lòng bàn tay, lòng bàn chân và những nơi khác của tôi. Chúng không ngừng quay theo chiều kim đồng hồ và ngược chiều kim đồng hồ. Toàn bộ cảnh tượng đầy màu sắc và rất đẹp.
Vào ngày thứ tư, tôi đã có thể đi bộ dễ dàng, và tôi đã rất phấn khích.
2. Học Pháp
Bởi vì tôi không thể đọc tốt, học Pháp là điều hơi khó khăn cho tôi. Để khuyến khích tôi, Sư Phụ thường triển hiện cho tôi một số cảnh tượng đẹp. Khi tôi quên bật đèn khi học vào ban đêm, các chữ mà tôi đã đọc trở nên lấp lánh vàng và xuất hiện với kích cỡ khoảng 5 cm. Khi tôi hoàn thành một dòng, dòng tiếp theo cũng sẽ chuyển sang ánh vàng kim như vậy. Đôi khi tôi thấy rằng đằng sau mỗi chữ có tầng tầng lớp lớp của cùng một chữ như vậy. Mặc dù tôi đã học Đại Pháp sớm, nhưng tôi đã không học Pháp tinh tấn do khả năng đọc kém cỏi. Có một thời điểm tôi học khó hơn bình thường và đọc được hai phần. Sau đó tôi nhìn thấy một hài nhi bụ bẫm, đáng yêu xuất hiện trong cuốn sách. Tôi biết đó là Sư Phụ đang khích lệ tôi.
Khi tôi buông lơi và không tinh tấn, tôi thường thấy những thứ hỗn độn hoặc lốc xoáy đen xoáy xung quanh tôi. Nhưng chúng biến mất khi Sư Phụ vẫy tay. Tôi thực sự trân trọng sự quan tâm của Sư Phụ đối với mỗi người chúng ta.
Đôi khi tôi minh bạch được một nguyên lý Pháp hoặc đề cao nhanh, tôi có thể thấy một bức tường được hình thành sau lưng tôi ngay lập tức. Cùng thảo luận với các bạn đồng tu, tôi hiểu rằng điều này là Sư Phụ đã tách riêng phần tu luyện tốt của tôi với phần con người.
Trong khi đang học Pháp, tôi thấy các thiên nhân mặc quần áo thần tiên đang ngồi đả tọa xung quanh chúng ta với tay để tư thế kết ấn, và đang lắng nghe bài giảng của Sư Phụ. Họ xếp hàng ngay ngắn và để lại một lối đi cho chúng tôi qua.
3. Phát chính niệm
Vào mùa đông năm 2009, các học viên trong thành phố của chúng tôi lên kế hoạch phát chính niệm gần cổng của nhà tù. Khoảng ba mươi học viên tập trung và chờ xe buýt để đi đến nhà tù, nhưng do can nhiễu, chúng tôi chờ đợi một thời gian dài mà không nhìn thấy một chiếc xe buýt nào. Nhiều học viên rời đi. Tôi nghĩ rằng, “Không ai có thể ngăn cản tôi. Tôi phải đi.” Chẳng bao lâu xe buýt đến.
Bởi vì vào mùa đông ban ngày khá ngắn, trời đã tối khi chúng tôi đến trại giam, và chúng tôi phát chính niệm từ bên ngoài. Nhiều bảo vệ bước ra và rọi đèn pin về phía chúng tôi. Tôi nói với các đồng tu, “Hãy ở lại. Họ không thể nhìn thấy chúng ta.” Chắc chắn, họ đã không nhìn thấy chúng tôi và đã quay về đồn của họ. Tôi ngay lập tức nhìn thấy thân thể của năm người chúng tôi đã cao như bầu trời trong một không gian khác. Y phục chúng tôi mặc đã trở thành y phục thiên nhân. Ngồi bên cạnh tôi còn có một tiểu hài tử, như là thai nhi trong bụng mẹ, còn mang theo cuống rốn, cái đầu thật to, hai tay lồng vào nhau ôm vai. Có rất nhiều thiên binh thiên tướng trong bộ áo giáp ánh vàng rực rỡ. Họ nhìn chằm chằm vào chúng tôi với giáo trong tay. Ba hàng ngựa màu sắc rực rỡ đứng bên cạnh chúng tôi, có một thiên binh cầm một cây giáo vàng lóng lánh, uy phong lẫm liệt đứng tại nơi đó, họ không tham gia trận chiến, có lẽ Sư Phụ muốn tạo cơ hội gây dựng uy đức cho đệ tử chúng ta.
Tôi nhìn thấy nhiều cảnh tượng khác tuyệt vời, bao gồm cả cây liễu với các nhánh cây đung đưa và lá, hoa hướng dương màu vàng tươi sáng, cây rau diếp xanh tươi to lớn, và những con gà cao một mét với móng vuốt vàng. Tất cả các màu sắc rất sống động không thể tả được. Tất cả những sinh mệnh này đều đang hỗ trợ chúng ta.
Sau đó tôi đã kể với các đồng tu về những gì Sư Phụ đã cho tôi thấy, và họ đã được khích lệ rất nhiều. Chúng tôi đã tiếp tục kiên trì việc phát chính niệm trong ba năm nay, và chưa bao giờ gián đoạn.
Khi tôi ở trong tù, tôi nói với các đồng tu rằng nhà tù không phải là nơi chúng ta ở lại. Tôi đã phát chính niệm mạnh mẽ,“Chúng tôi phải ra khỏi đây để chúng tôi có thể cứu người.” Sau đó tôi nhìn thấy trong một không gian khác mọi người trong trại giam xếp thành 5 hàng, đi ra khỏi cổng nhà tù từng người một.
4. Giảng chân tướng
a. Tất cả chúng sinh đang khao khát được cứu
Tôi thường thấy những cảnh như thế này khi tôi giảng thanh chân tướng về Pháp Luân Công. Bất cứ nơi nào các học viên nói với mọi người sự thật về Pháp Luân Công, các sinh mệnh sống trong các không gian khác cũng tụ tập xung quanh. Đôi khi, một người nghe mà có vẻ không quan tâm, tôi có thể thấy rằng sinh mệnh phía sau anh ta đã khóc và cầu xin tôi cứu anh ấy. Tôi đã không bị ảnh hưởng bởi hành xử bề mặt của người ấy, và vẫn tiếp tục giảng chân tướng. Khi cuối cùng anh đã minh bạch, các sinh mệnh đằng sau anh mỉm cười và hạnh phúc. Đôi khi có những người ngoan cố, tôi sẽ phát chính niệm mạnh mẽ để cho anh ta biết rằng các sinh mệnh của họ trong một không gian khác đang chờ đợi.
b. Khởi thiện niệm của lính canh
Trong khi tôi bị cầm tù, tôi đã nói với các lính canh những gì tôi thấy trong các không gian khác. Tôi đã mô tả cho họ các hoa cỏ cây cối khác nhau, lâu đài và các tòa nhà, ghế sofa, các món ăn lấp lánh, và những cảnh tượng thú vị khác. Họ đều rất quan tâm, và họ hỏi tôi liệu có gì xấu sau lưng họ không. Tôi nói với họ rằng những người hay mắng chửi các học viên thì ma quỷ ở phía sau quản họ. Một số ma quỷ đeo khăn quàng cổ và di chuyển kỳ lạ, và một số đi ngang. Các lính canh mà đã hết sức cố gắng bảo vệ các học viên thì không có những thứ như vậy ở sau họ. Tôi cố gắng dẫn dắt thiện niệm và giúp họ hiểu được các nguyên lý về thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo và thiên lý đang bảo hộ những người tốt.
c. “Các chúng sinh trong thế giới của chị tất cả đều đang khóc tuyệt vọng”
Một lần khi tôi đang nói chuyện với một người lính canh, tôi đột nhiên nhìn thấy một nhóm người khóc nức nở ở sau một người mà đã đi theo con đường tà ác.“Xin hãy cứu chúng tôi”, tất cả họ đều khóc. Tôi nhắc nhở người này “Chị có biết rằng chúng sinh trong thế giới của chị tất cả đều đang khóc tuyệt vọng không?” Người này cúi xuống ôm đầu một cách hổ thẹn.
5. Hình ảnh của một học viên đã bị bức hại đến chết
Trong vòng một vài giờ sau khi học viên A đã bị bức hại đến chết, tôi thấy hình ảnh của cô ấy trong một không gian khác. Cô ấy có mái tóc cuộn thành búi lớn, và cô ấy còn rất trẻ và xinh đẹp. Cô mặc quần áo đầy màu sắc, và đang đứng trên một đám mây. Bên cạnh cô ấy có một đứa trẻ khoảng 6 hay 7 tuổi. Cô ấy mỉm cười và nói với tôi: “Tôi đi trước nhé.”
Ngay sau đó, tôi nhìn thấy một cảnh khác. Cô ấy đứng cực cao trong một không gian trên thiên thượng, đang chỉ vào một cánh cửa tráng lệ đằng sau cô ấy. Tôi đang đứng ở một vị trí rất thấp, cảm giác minh bạch rằng tôi còn kém xa.
Lý do tôi chia sẻ những trải nghiệm này là hy vọng nhiều học viên sẽ trân quý cơ hội vô cùng quý báu này và làm hết sức mình để trợ giúp Sư Phụ.

Bản tiếng Hán: http://www.minghui.org/mh/articles/2012/7/21/另外空间的身体顶天立地巨大无比-260475.html
Bản tiếng Anh: http://en.minghui.org/html/articles/2012/8/14/134943.html
Đăng ngày 30-09-2012. Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

25 tháng 9 2012

Nhìn lại lịch sử để hiểu hơn về việc “hướng nội”


Nhìn lại lịch sử để hiểu hơn về việc “hướng nội”


Bài viết của một học viên Pháp Luân Đại Pháp từ tỉnh Hắc Long Giang
[MINH HUỆ 23-06-2012] Trong quá khứ đã có rất nhiều nhà hiền triết. Họ được tất cả mọi người tôn kính khi họ còn sống và tưởng nhớ tới họ qua bao nhiêu thế kỉ sau khi họ tạ thế.Trong suốt cuộc đời của mình, họ cũng gặp phải những rắc rối, và khi họ tìm thấy Phật Pháp, họ cũng đã vấp phải những trở ngại hoặc đã bị đàn áp. Vào thời điểm đó, họ đã nghĩ gì, nói và làm những gì? Hãy tĩnh tâm và cùng nhìn xem cách họ nói và những việc mà họ làm.
Vào thời  xưa, một lần vua Nghiêu tới vùng nông thôn và đã nhìn thấy hai người làm trái luật phát và đang bị áp giải tới nhà tù. Vua Nghiêu đi qua và hỏi, “Tại sao hai ngươi lại làm trái luật như vậy? Các ngươi đã phạm tội gì?” Họ đáp lại, “Hạn hán kéo dài đến nỗi mà chúng tôi chẳng còn gì để ăn, vì thế chúng tôi đã đến nhà của người khác và ăn trộm chút thức ăn.” Khi vua Nghiêu nghe thấy vậy liền nói với quân lính rằng: “Thả họ ra và nhốt ta lại đi!” Người lính đó đã bị sốc vì làm sao anh ta có thể nhốt một vị vua chứ? Vua Nghiêu nói: “Ta đã phạm phải hai tội lớn và hai người đó đều không có tội tình gì cả. Thứ nhất, ta đã không dạy bảo thần dân của mình được tốt, vì thế mà họ đã đánh cắp thức ăn của người khác. Thứ hai là ta không có đức hạnh cho nên chúng ta mới không có chút mưa nào như thế. Tất cả đều là lỗi của ta.” Sự chân thành này của ông đã làm cảm động trời đất và trời bắt đầu mưa.
Khi vị vua này đã nhận ra rằng những thần dân của mình có sai sót và phạm tội, ông liền nhìn vào trong để tìm xem ông đã phạm lỗi ở đâu. Vì ông là một vị vua, việc giáo dục và quản lý họ sao cho tốt là trách nhiệm của ông, và ông phải chịu trách nhiệm cho những lỗi lầm của họ. Như Khổng Tử đã nói trong Luận Ngữ:“Khắp nơi có tội, tội là ở chính Trẫm. Bách tính có đổ tội thì đổ lên chính ta.” Thực ra họ vốn đã có đạo đức, nhưng chuẩn mực họ tự đặt ra cho mình là vô biên, vì vậy họ lại xét mình một lần nữa, chân thành ăn năn hối cải, tu đức tiến thiện.
Khi Đức Milarepa còn đang tu hành, thầy thuốc Thao Phổ, do ghen tức, đã bảo tình nhân của mình trộn thuốc độc vào pho mát để giết vị hòa thượng này. Tuy nhiên, Đức Milarepa đã chấp nhận ăn pho mát độc với một nụ cười và nói với người đàn bà kia rằng,“Thứ nhất, tôi không đành lòng để bà ăn nó. Bởi vì bà quá đáng thương. Thứ hai, nếu tôi không nhận thứ bà cấp cho tôi, tôi sẽ vi phạm giới luật của Bồ tát và điều đó sẽ mang đến hậu quả tâm linh nghiêm trọng. Nhiệm vụ của tôi đã hoàn thành và cuộc đời của tôi giờ cũng đã đến hồi kết thúc. Đã đến lúc tôi đến một thế giới khác. Bản thân những thứ này ít nhất là không thể hại được tôi. Tôi ăn nó hay không giờ đây không còn quan trọng nữa. Nhưng nếu  tôi ăn nó từ đầu, bà sẽ không nhận được ngọc bích như là phần thưởng cho tội ác của mình. Giờ đây viên ngọc bích đang nằm ở trong tay của bà, tôi sẽ ăn nó, để thỏa mãn mong muốn của thầy thuốc và đảm bảo rằng bà có được viên ngọc bích kia. Nhưng thầy thuốc Thao Phổ sẽ không thực hiện những lời hứa khác với bà đâu. Ông ấy đã nói rất nhiều điều về cách xử sự của tôi. Chẳng có điều gì là chân thật trong lời ông ấy nói cả, vì vậy cả hai người sẽ trải qua sự hối hận tột cùng. Khi điều này xảy đến, hãy chân thành sám hối. Để cứu lấy bản thân mình thì đừng gây bất kỳ tội ác tương tự nào nữa. Hãy cầu nguyện cho tôi và những Phật tử với một trái tim chân thành.”
Đức Milarepa đã biết có độc ở trong miếng pho mát, nhưng ông hề lên tiếng mà chỉ bình thản chấp nhận nó. Ông không hề buộc tội những người khác là gian xảo hay độc ác, cũng không hề nghĩ rằng việc đầu độc của người thường có thể làm hại ông. Vị Tôn giả nhìn vào trong, nghĩ rằng nếu ông không chấp nhận miếng pho mát đó thì ông có thể phạm giới luật. Ông cũng tìm cách làm thế nào để có thể mang lại tốt nhất những lợi ích cho chúng sinh và làm thế nào ông có thể để người phụ nữ nghèo này nhận tội và kết duyên với Phật giáo. Nhìn vào trong và liên tục cứu độ chúng sinh đó là cảnh giới của những người tu luyện chân chính.
Khi Phật tử Huyền Trang đi đến Ấn Độ để tìm kiếm chân kinh Phật giáo, ông ấy đã xuất cảnh bất hợp pháp. Khi Huyền Trang đã học được những kinh điển Phật giáo, ông trở về quê hương dưới triều đại nhà Đường. Hoàng đế Thái Tông của triều đại nhà Đường rất vui mừng khi nghe tin ông quay về và tiếp kiến ông ở Điện Nghi Loan.
Vua Thái Tông hỏi Huyền Trang, “Tôn sư, tại sao ngài rời khỏi đây mà không bảo một tiếng?” Huyền Trang trả lời, “Khi tôi rời đi, tôi đã trình tấu chương của mình vài lần, nhưng vì sự chân thành và nỗi khát khao của tôi không đủ mạnh, cho nên tôi đã không được bệ hạ cho phép. Bởi vì tôi mong mỏi để có được chân kinh Phật giáo nên tôi đã rời đất nước này một cách bất hợp pháp. Đây hoàn toàn là hành động cá nhân của tôi khi đã không tôn trọng luật pháp. Tôi rất hổ thẹn và lo sợ.”
Huyền Trang đã không hề có ý phàn nàn nào hết. Ông không thắc mắc về những phán quyết không hợp lý của vua Thái Tông cũng không phàn nàn về các vị quan địa phương đã không chuyển những tấu chương đó lên Hoàng thượng. Ông đã gần như bị bắn hạ bởi một mũi tên khi ông vượt biên và sống sót qua nhiều mối nguy hiểm trước khi đến được Ấn Độ để có được những kinh điển Phật giáo chân chính. Tuy nhiên, ông nghĩ rằng tất cả những khổ ải này là do sự giả dối của mình, chứ không phải là do sự cản trở của những người khác. Huyền Trang đã được biết đến là một cao tăng bởi vì ông đã nhìn vào bên trong, không hờn trách, cũng không có lòng oán hận.
Câu chuyện kể trên cho chúng ta thấy rằng việc hướng nội, vốn xuất phát từ sâu thẳm trong tâm chúng ta, với sự khoan dung và độ lượng, sự chân thành và vô vi, thật sự là một cảnh giới cao. Những cao tăng đã không hề oán trách hay hận thù, những lời mà họ nói đều ấm áp và những hành xử của họ đều là vì lợi ích của chúng sinh. Chúng ta nên cảm thấy xấu hổ khi đem ra so sánh. Khi chúng ta gặp phải những mâu thuẫn, chúng ta cố gắng tìm ra những lý do bao biện, khi chúng ta đối mặt với các trở ngại, chúng ta trở nên tức giận và kêu ca phàn nàn khi chúng ta gặp tai họa, chúng ta né tránh chúng mà không hề do dự. Tất cả những quan niệm của con người cần phải được thay đổi một cách cơ bản. Nếu chúng ta không thay đổi những quan niệm về vị tư vị ngã và tâm hẹp hòi thì việc tu thành Phật sẽ chỉ là ảo tưởng. Sư Phụ đã giảng:
“Hiện nay người ta như vậy đấy, hễ gặp vấn đề là trước tiên [họ] đẩy trách nhiệm, có tại họ hay không thì cũng đẩy cho [người khác].” (Chuyển Pháp Luân, Bài giảng thứ tư, “Đề cao tâm tính”)
Đẩy trách nhiệm là một đặc tính cơ bản của con người hiện đại, trong khi hướng nội mới là tiêu chí cơ bản của một người tu luyện.
Ở một một giai đoạn khác nhau, Sư phụ đã nhấn mạnh nhiều lần vào một vấn đề đó chính là hướng nội mà tìm.
“Hễ có vấn đề hãy hướng nội mà tìm, đó là chỗ khác biệt căn bản giữa đệ tử Đại Pháp và người thường.” (“Gửi trạm phụ đạo Đại Pháp tỉnh Sơn Đông” trích trong Tinh Tấn Yếu Chỉ)
Đoạn Pháp này chỉ cho chúng ta hiểu rằng chỉ bằng cách hướng nội khi vấn đề nảy sinh thì chúng ta mới có thể là những đệ tử Đại Pháp. Nếu không thì chúng ta không phải là đệ tử. Bởi vì nếu chúng ta không hướng nội mà tìm, thì chúng ta cũng chẳng khác nào một người thường. Đây là tiêu chuẩn tối căn bản. Nếu chúng ta không tuân thủ theo nó, thì chúng ta không đủ tư cách là học viên. Dù cho chúng ta có học Pháp mỗi ngày và bận rộn  làm ba việc, chúng ta vẫn chỉ là một người thường đang làm những công việc của con người thôi. Đó không phải là tu luyện, và những nỗ lực của chúng ta sẽ không thu được kết quả gì cả.
Chúng ta phải nhận ra rằng việc hướng nội đó không chỉ là tiêu chuẩn thấp nhất trong tu luyện của chúng ta mà thực tế là chúng ta còn phải tuân thủ nó trong suốt quá trình tu luyện của mình. Nói một cách khác, lúc nào chúng ta cũng phải hướng nội. Tại sao chúng ta cần làm như vậy? Bởi vì chúng ta phải đề cao bản thân trong tu luyện. Điều này yêu cầu chúng ta tìm ra khoảng cách giữa bản thân mình với Đại Pháp, giữa bản thân mình với các bạn đồng tu, để tìm cho ra chỗ mà chúng ta còn chưa làm tốt, để chúng ta có thể đề cao và theo kịp với những người khác. Chỉ bằng cách làm này chúng ta có thể từng bước đáp ứng được những yêu cầu của Pháp và đồng hóa với Pháp để đạt tới viên mãn. Để hướng nội, chúng ta phải hiểu những tiêu chuẩn của Pháp cũng như là trạng thái của chính chúng ta. Khi chúng ta hiểu điều này một cách rõ ràng, chúng ta có thể xét mình theo Pháp và phát hiện ra những vấn đề thực sự nằm ở đâu. Tất nhiên khi chúng ta hướng nội chúng ta không bao giờ được thừa nhận bức hại hay những an bài của cựu thế lực.
Tôi hy vọng rằng những ai mà vẫn không biết cách hướng nội hãy tăng cường học Pháp. Sau khi làm xong ba việc, trong khi nghỉ ngơi, bạn có thể đọc những tác phẩm văn học văn hóa truyền thống để xem những vị đại đức đã hướng nội như thế nào. Với cách này bạn sẽ tự nhiên học được làm thế nào để hướng nội. Tôi hy vọng rằng những học viên này, những người như tôi, vẫn chưa thực sự hướng nội, có thể tạo ra một cách để hướng nội. Sau đó khi chúng ta gặp phải vấn đề, việc đầu tiên chúng ta nghĩ tới nên là hướng nội. Chỉ bằng cách làm này chúng ta có thể thực sự đạt được tu luyện chân chính và dũng mãnh tinh tấn.


Đăng ngày: 24-09-2012. Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

28 tháng 8 2012

Nhìn thấu bản chất của tâm sắc dục

Nhìn thấu bản chất của tâm sắc dục

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ở Mỹ

[Chanhkien.org] Đệ tử Đại Pháp đều biết, tâm sắc dục là cửa tử mà người tu luyện nhất định phải qua, tâm sắc không bỏ thì tuyệt đối không thể viên mãn. Tôi tuy biết từ Pháp lý như vậy, nhưng vẫn thường bị tâm sắc lôi kéo, vô cùng hổ thẹn và ân hận. Hôm nay cùng một vị đệ tử khác giao lưu, mới nhìn thấu bản chất của tâm sắc dục.

Nhục thân con người cũng giống như một bộ y phục, con người sau khi đầu thai thì mặc nó vào. Tư duy chân chính của con người là nằm ở nguyên thần, chứ không phải ở bộ y phục này. Tại không gian khác, bộ y phục này cũng đang sống, có tư duy, có suy ngẫm, nhưng thứ nó suy nghĩ là ở tầng rất thấp, đều xuất phát từ xã hội người thường. Mà tâm sắc này, hoàn toàn là bộ y phục này đang tư duy.

Sau khi nguyên thần đầu thai, có thể chuyển sinh thành người nam, cũng có thể chuyển sinh thành người nữ. Nếu như là người nam, tâm sắc của nó biểu hiện chính là thấy người nữ đẹp; nếu như là người nữ, tâm sắc của nó biểu hiện chính là thấy người nam đẹp. Tuy nhiên các tư tưởng này không phải là tư tưởng của nguyên thần, mà chỉ là bộ y phục kia đang nghĩ, do đó nó cực kỳ thấp, ở tầng thứ rất thấp.

Bởi vậy là người tu luyện, khi tâm sắc dục xuất hiện, chúng ta cần lập tức nghĩ rằng, đây là bộ y phục kia đang nghĩ, là cách nghĩ ở tầng thấp. Nguyên thần của chúng ta hoàn toàn không nghĩ như vậy, đó mới là tự kỷ chân chính của chúng ta, hơn nữa nguyên thần của đệ tử Đại Pháp đều đến từ tầng thứ rất cao.

Ví dụ thế này: Nếu một cá nhân chuyển sinh thành heo đực, thì nó sẽ thấy heo cái là đẹp. Giả sử heo đực này có thể nghĩ mình vốn là người, thì nó ắt sẽ không có hứng thú với heo cái nữa. Tại đây, thân heo chính là y phục của nguyên thần nó, y phục của nó thấy heo cái đẹp, chứ không phải nguyên thần nó thấy thế. Nếu nguyên thần nó chuyển sinh thành heo cái, thì nó lại thấy heo đực mới là đẹp.

Khi tôi nhìn thấu bản chất của tâm sắc dục, mới thấy diệt trừ nó không có gì là khó cả, mà là việc rất dễ dàng.

Trên đây chỉ là thể ngộ chưa thành thục để giao lưu cùng đồng tu, kính mong chỉ giúp thiếu sót.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/112154

03 tháng 8 2012

Văn sử mạn đàm: Vì lợi ích bách tính, được thần tiên kính trọng

Văn sử mạn đàm: Vì lợi ích bách tính, được thần tiên kính trọng

Bài viết của Trịnh Trọng

[MINH HUỆ 14–04–2012]

Vì lợi ích bách tính, được thần tiên kính trọng

Trương Quai Nhai làm quan ở Thành Đô. Một đêm ông nằm mộng thấy được một vị thần tiên mời đến chơi. Trong khi họ đang nói chuyện, đột nhiên có một người tiến vào đọc thông báo: “Tây Môn Hoàng Kiêm Tế đã đến”. Sau đó, một vị đạo nhân bước vào phòng. Vị thần tiên kia lập tức tiếp đãi và đối đãi ông bằng lễ mạo phi thường cung kính.

Sáng hôm sau, Trương Quai Nhai tìm kiếm khắp nơi và cuối cùng đã tìm được đạo sĩ Hoàng Kiêm Tế và mời được ông về phủ của mình. Trương Quai Nhai nhìn vị đạo sĩ và nhận ra đúng là người mà ông đã gặp trong mộng. Ông hỏi Hoàng đạo sĩ, “Ngài đã làm những việc thiện gì vậy? Vì sao vị thần tiên đó lại kính trọng ngài vậy?”

Hoàng đạo sĩ nói,“Tôi ngoài việc thu mua lúa mì với mức giá phải chăng vào vụ thu hoạch ra thì không có làm việc gì tốt thực sự có ý nghĩa cả. Năm sau tôi bán với giá gốc cho bách tính khi gặp thời buổi khó khăn. Tôi đã bán bằng với giá mua. Làm vậy tôi cũng không mất gì cả, nhưng lại giải trừ được mối nguy cho bách tính.” Sau khi nghe Hoàng Kiêm Tế kể, Trương công (Trương Quai Nhai) đã không thể kiềm chế được cảm xúc. Ông đã bảo nô bộc của mình giúp Hoàng đạo sĩ ngồi vào một cái ghế rồi sau đó cung kính bái lạy.

Thần tiên sẽ tôn kính người làm việc tốt có lợi cho bách tính. Chúng ta nên để cho mọi người biết về những việc tốt mà Hoàng đạo sĩ đã làm. Hãy để bách tính biết rằng hành thiện sẽ được thần tiên kính trọng. Hy vọng rằng có nhiều người hơn nữa sẽ noi theo.

Người ích kỷ bị sét đánh, người tốt bụng được ban quý tử

Thầy thuốc nổi tiếng thời Đường, Tôn Tư Mạc, cả đời cống hiến cho y học, đã viết nhiều cuốn sách trong đó có các cuốn Thiên Kim Phương và Thiên Kim Dực Phương truyền lại cho hậu thế.

Tôn Tư Mạc đã từng tình cờ cứu sống một con rồng. Để đáp lại thịnh tình của Tôn Tư Mạc, con rồng đã tặng ông một phương thuốc của Long Cung. Tôn Tư Mạc đã áp dụng nó trong khi trị bệnh và rất có hiệu quả. Sau đó, ông đã biên soạn nó vào trong cuốn Thiên Kim Phương, và đã khắc lên đá để truyền lại cho hậu thế.

Đương thời, có một cá nhân nghe nói về sự việc này. Để kiếm lợi lớn, ông ta đã sử dụng quan chức của mình để chiếm đoạt hòn đá. Sau đó, ông ta lên kế hoạch dùng một phương pháp đặc biệt để sao chép phương thuốc từ tảng đá. Ông ta sẽ in thành toa và bán nó. Tuy nhiên, ông ta đã vô tình làm vỡ tảng đá. Chẳng bao lâu sau, ông ta bị sét đánh chết.

Sau đó, một người tốt bụng đã thuê người thợ thủ công trước kia khắc lại phương thuốc vào một tảng đá. Đây là cách mà cuốn Thiên Kim Phương quý giá đã được truyền lại cho các thế hệ sau.

Một đêm nọ, người tốt bụng này đã có một giấc mộng. Trong mộng, Tôn Tư Mạc nói với ông,“Ông vốn không có con trai. Vì ông đã làm được một điều tốt, ông sẽ được ban cho một quý tử”. Chẳng bao lâu sau khi nằm mộng, vợ ông đã mang bầu và sinh hạ được một cậu con trai. Khi trưởng thành, con trai của ông trở thành một đại quý nhân.

Người ích kỷ mà đã làm vỡ tảng đá chỉ tự tư tự lợi, trong khi người vị tha mà đã khắc lại phương thuốc chỉ nghĩ cho người khác. Trớ trêu thay, người ích kỷ cuối cùng chẳng được gì và người tốt bụng đã được hưởng lợi ích từ việc làm tốt của mình.

Triệt để tiêu hủy những văn bản không tốt

Vào thời Tuyên Đức triều Minh, nhiều quan thái giám đã bị đưa tới Ấn Độ Dương để tìm báu vật. Tiêu tốn vô số tiền của và nhiều người đã chết. Trong những năm Thiên Thuận, có người kiến nghị Hoàng thượng tiếp tục săn tìm kho báu. Vì vậy, Hoàng thượng phái Chủ quản binh bộ Hạng Trung tham khảo các tài liệu liên quan đến việc săn tìm kho báu và lập ra một phương án mới.

Đương thời, Lưu Đại Hạ giữ chức Lang Trung phụ trách việc lưu giữ các tài liệu. Khi nghe được tin đó, ông đã giấu các tài liệu khỏi tay thuộc hạ của Hạng tướng quân. Do đó, kế hoạch đã bị đình lại vì không có tài liệu để tham khảo.

Sau đó, khi Hạng Trung hỏi những người lưu trữ tài liệu về việc các tài liệu kho báu bị thất lạc, Lưu Lang Trung cười nói,“Tìm kiếm kho báu ở Ấn Độ Dương là một kế sách dở. Các tài liệu nên bị hủy đi ngay cả nếu như hôm nay chúng vẫn còn. Vì sao ngài còn hỏi về chúng?” Hạng tướng quân bỗng bừng tỉnh và vô cùng kính trọng Lưu Đại Hạ. Ông cũng xin lỗi Lưu Đại Hạ, “Việc làm của ông đã làm cảm động trời đất. Ông mới xứng ngồi ở vị trí của tôi!” Quả thực, sau này Lưu Đại Hạ đã được thăng chức lên làm Thái Bảo Đại Tư Mã và con cháu của ông về sau cũng làm quan lớn.

“Để biểu dương việc làm tốt của Lưu Đại Hạ, tất cả tài liệu mang đến tai hại đều nên bị hủy. Quan trọng hơn, những cuốn sách mà khuyến khích dâm dục và phỉ báng Phật Pháp là những văn bản tội lỗi. Để tránh làm hại thế hệ sau, chúng nhất định phải bị hủy!”

(Những câu chuyện lịch sử bên trên được trích từ cuốn “An Sĩ Toàn Thư” của triều đại nhà Thanh)

Bản tiếng Hán: http://www.minghui.org/mh/articles/2012/4/14/文史漫谈-利益百姓-神仙敬重-255602.html

Bản tiếng Anh: http://en.minghui.org/html/articles/2012/4/24/132872.html#.T92WIrAe4l9

Đăng ngày: 2-8-2012. Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

27 tháng 7 2012

Chứng thực sự vượt xa khoa học thông thường

Chứng thực sự vượt xa khoa học thông thường

Bài của Ngộ Chân, một học viên Pháp Luân Đại Pháp ở Trung Quốc

Pháp Luân Đại Pháp là một khoa học siêu thường

Tôi là một bác sĩ mà kỹ năng thực tế của tôi dựa trên nền tảng kiến thức Tây Y. Lớn lên, tôi bị bao bọc bởi thuyết vô thần và chỉ hiểu biết chút ít về tu luyện. Vì vậy, dựa trên xu hướng của phương Tây, tôi đã nghĩ Trung Y và các cách chữa trị bằng khí công không phải là khoa học. Tôi từng tin rằng “nhìn thấy mới tin.”

Tôi bị nhồi nhét sâu đậm bởi các nguyên lý vô thần, nên khi mà khí công trở nên phổ biến vào những năm 1990, tôi nghĩ nó có chút gì đó giống như chạy, đi bộ, hay các bài tập thể dục khác.

Chồng tôi bị thoát vị đĩa đệm trong nhiều năm nay. Khi nó nghiêm trọng, anh ấy thậm chí không thể xoay chuyển khi nằm xuống. Mỗi năm anh ấy bị đưa vào viện vài lần. Thậm chí là một bác sĩ, nhưng tôi không thể giúp được anh ấy, vì chẳng có thứ gì có thể cứu được ngoài các loại thuốc đặc trị.

Vào năm 1996, một người bạn của chồng tôi đã giới thiệu Pháp Luân Công cho anh ấy. Anh ấy đã bị cuốn hút và muốn thử tập ngay, vì anh ấy được kể rằng tập luyện có thể chữa khỏi các bệnh. Vợ của người bạn của anh ấy thậm chí đã bắt đầu có kinh trở lại khi cô ấy bắt đầu tập luyện. Tôi nghĩ nó có vẻ rất tốt và không phản đối. Anh ấy đã đọc cuốn Chuyển Pháp Luân và tập các bài công hàng ngày. Sau đó ít lâu anh ấy đã tháo đai nẹp lưng và dụng cụ chữa trị. Tôi lo lắng một chút và nói, “Anh không biết liệu khí công này sẽ khởi tác dụng đối với anh lúc này. Vì sao anh lại tháo bỏ dụng cụ hỗ trợ của anh?” Anh ấy trả lời, “Anh biết anh đang làm gì. Ổn rồi mà. Bây giờ tập luyện Pháp Luân Công là điều quan trọng nhất trong cuộc đời của anh.” Tôi không hiểu được anh ấy và nghĩ nó chỉ là tập luyện khí công đặc thù, nên nó có tầm quan trọng như thế nào? Trong vòng 6 tháng anh ấy đã trở nên khỏe mạnh hơn, và các triệu chứng đĩa đệm thoát vị, viêm phế quản mãn tính, và viêm ruột non mãn tính của anh ấy không còn xảy ra nữa. Thậm chí bệnh nhiễm nấm móng tay cũng biến mất và trông anh ấy trẻ hơn nhiều.

Tôi bị sốc bởi anh ấy đã thay đổi như thế nào, và nhận ra rằng sự hồi phục của anh ấy là điều mà đã xảy ra với hầu hết các học viên Pháp Luân Công. Tôi không thể lý giải được nó với những gì tôi đã biết qua việc nghiên cứu các lý thuyết về Tây Y. Chồng tôi đã khích lệ tôi tập luyện Pháp Luân Công và tôi đã thực sự trở nên quan tâm đến nó. Suy nghĩ của tôi đã hiển hiện ra rằng tập luyện Pháp Luân Công có thể cải biến về sức khỏe, và là một bác sĩ, tôi muốn hiểu được các lý do ẩn sau những sự phục hồi kỳ diệu này. Tôi đã bắt đầu tập luyện vào tháng 6 năm 1997.

Ít lâu sau, trước khi tôi thấu hiểu về Pháp Luân Công, tôi đã đi công tác tới tỉnh Thanh Hải. Tôi lo lắng về bệnh chóng mặt ở độ cao, nhưng thật ngạc nhiên, trong số tất cả các đồng nghiệp cùng đi, tôi là người duy nhất không bị ốm trong suốt 6 tháng ở đó, mặc dù tôi là người lớn tuổi nhất. Thậm chí tôi còn không bị cảm lạnh. Tất cả các đồng nghiệp của tôi đều ngạc nhiên và hỏi tôi về điều bí mật của mình. Tôi đã bảo họ rằng tôi tập Pháp Luân Công.

Ngoài ra, tôi không còn bị táo bón kéo dài, điều này lại là nhân tố tiếp theo để thấy rằng Pháp Luân Công không phải là môn tập luyện bình thường, và tôi trở nên siêng năng hơn trong việc đọc Chuyển Pháp Luân. Tôi đã biết rằng nguyên nhân của bệnh tật không phải là những gì mà lý thuyết Tây Y đã nói. Kiến thức Tây y cho rằng virus hay vi khuẩn gây ra bệnh tật, tuy nhiên có nhiều bệnh tật không thể được lý giải bởi lý thuyết đó. Bây giờ tôi hiểu rằng nguyên nhân căn bản của bệnh tật là nghiệp lực, mà nghiệp lực là vật chất màu đen được cấu thành bởi việc làm sai trái và những hành vi xấu. Sư Phụ đã giảng,

“Chúng tôi hãy giảng [tình huống] phổ biến nhất; người ta mọc khối u chỗ này, phát viêm chỗ kia, có gai xương ở chỗ nào đó, v.v., nơi không gian khác thì có một con linh thể nằm chính tại chỗ đó, có một con linh thể tại không gian rất thâm sâu. Khí công sư bình thường không thấy được [linh thể ấy], công năng đặc dị bình thường không thấy được, chỉ có thể thấy rằng thân thể có khí đen. Tại chỗ nào có khí đen, thì chỗ đó có bệnh, nói như thế là đúng. Nhưng khí đen không phải là nguyên nhân căn bản tạo thành bệnh, mà là vì ở trong một không gian thâm sâu hơn có con linh thể kia, [chính] là nó phát xuất ra cái trường” (Chuyển Pháp Luân).

Những lời giảng trong Pháp Luân Đại Pháp giải thích rằng các nguyên nhân của bệnh tật bị ẩn sâu ở một nơi thâm sâu, càng vi lạp, thì mức độ càng vi tế. Các nghiên cứu về bệnh tật của cơ thể và nguyên nhân bệnh bị giới hạn trên bề mặt và đó là lý do vì sao có nhiều điều không không thể lý giải được. Sư phụ giảng,

“Bệnh viện vẫn có thể trị bệnh, chỉ có điều cách trị liệu của nó là tại tầng của người thường, còn bệnh kia lại là [điều] siêu thường.”(Chuyển Pháp Luân)

“…trị bệnh bằng khí công thông thường và trị bệnh tại bệnh viện, đều là đưa cái nạn nguyên nhân tạo thành bệnh trì hoãn lại về sau, trì hoãn về nửa đời sau này hoặc về sau, hoàn toàn không động đến nghiệp lực.” (Chuyển Pháp Luân)

Đó là lý do vì sao bệnh xuất hiện trở lại mà hoàn toàn không chữa khỏi. Sau khi đọc Chuyển Pháp Luân, tôi đã ngộ ra rằng người ta phải tiêu trừ nguyên nhân căn bản của các bệnh, đó chính là nghiệp lực. Cách để tiêu trừ nghiệp lực là đồng hóa với Chân-Thiện-Nhẫn theo các nguyên lý của Pháp Luân Đại Pháp, là một người tốt, đề cao bản thân, nâng cao tiêu chuẩn đạo đức của mình, và sau đó chuyển hóa nghiệp lực thành đức.

Cuối cùng thì tôi đã hiểu được lý do hồi phục kỳ diệu và khỏe mạnh trở lại của cả chồng tôi và tôi. Việc tập luyện Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi là sự tu luyện của Phật Pháp. Chúng tôi tuân theo các nguyên lý, nên nghiệp lực của chúng tôi được loại bỏ và chúng tôi được hưởng lợi cả về sức khỏe lẫn thể lực. Đại Pháp đã lý giải nguyên nhân căn bản của bệnh tật và bản chất phương pháp Tây Y và Trung Y. Thực hành Pháp Luân Đại Pháp có thể chữa mọi bệnh tật mà không thể được chữa bởi liệu pháp Tây Y hay Trung Y. Pháp Luân Đại Pháp vượt xa kiến thức y học hiện nay của thế giới. Chúng ta không tập luyện Pháp Luân Đại Pháp chỉ là để đạt được sức khỏe tốt. Pháp Luân Đại Pháp là Phật Pháp và nó là một khoa học chân chính.

Giải thoát rào cản của liệu pháp y tế hiện hiện đại, một người phải chân chính tu luyện

Tôi đã bắt đầu tập Pháp Luân Đại Pháp để đạt được sức khỏe tốt. Sau một thời gian, quan niệm của tôi về phương pháp y học hiện đại đã hoàn toàn thay đổi. Tôi đã thoát khỏi sự lệ thuộc vào khoa học và y học hiện đại, và tôi không còn suy nghĩ rằng “nhìn thấy mới tin.” Tôi không còn cảm thấy rằng Tây y mới là cách duy nhất để chữa trị các bệnh tật. Khi các phương pháp Tây y không tác dụng, thì tôi đã khích lệ các bệnh nhân của tôi tìm hiểu các cách điều trị khác, như Trung Y và khí công.

Khí công và tôn giáo không phải là vô thần. Thực hành Pháp Luân Đại Pháp đã giúp tôi đột phá sự ràng buộc của thuyết vô thần. Ngoài sức khỏe tốt, tu luyện còn hàm nghĩa và mục đích sâu sắc. Sau khi giải thoát khỏi sự ngu muội của thuyết vô thần, cuối cùng tôi khẳng định chắc chắn rằng các vị thần thực sự đã tồn tại. Họ là những sinh mệnh cao tầng trong các không gian khác. Họ có khả năng siêu nhiên và có thể quản các sinh mệnh ở tầng thấp. Họ tuân theo các nguyên lý Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ. Sự tu luyện là tuân theo tiêu chuẩn này, đề cao tâm tính của bản thân, loại bỏ các chấp trước của con người, và quay trở về với bản nguyên thực của con người.

Sư phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân,

“Người ngồi chỗ kia, không động tay không động chân, mà có thể làm những điều mà mọi người dùng hết cả tay lẫn chân cũng không làm được; có thể thấy được [Pháp] lý chân chính của các không gian vũ trụ; thấy chân tướng của vũ trụ; thấy những điều người thường không thấy. Chẳng phải đó đã là người tu luyện đắc Đạo? Chẳng phải đó đã là Đại Giác Giả? Liệu có thể nói người ấy cũng như người thường? Chẳng phải là người tu luyện giác ngộ là gì? Gọi là ‘Giác Giả’ chẳng đúng sao? Dịch thành tiếng Ấn Độ cổ thì chính là ‘Phật’ {Buddha}. Thực ra là như thế, khí công chính có tác dụng ấy.”

Cuối cùng tôi đã hiểu hết thảy những gì là tu luyện. Mục đích cơ bản của tập luyện Pháp Luân Công là để tu luyện thành Thần Phật. Pháp Luân Đại Pháp là Phật Pháp. Rốt cuộc, tôi đã ngộ được mục đích của cuộc đời tôi trên trái đất này để làm người. Tôi đề cao từ hiểu biết một cách cảm giác tới hiểu biết một cách lý trí về Pháp Luân Đại Pháp. Khi tôi bắt đầu tập Pháp Luân Đại Pháp, là để thu được sức khỏe tốt. Hiện giờ tôi hiểu được rằng tôi luyện tập để quay trở về nguồn cội của tôi. Tôi đã giải phóng từ rào cản của triết lý y học hiện đại và thuyết vô thần sang tu luyện chân chính.

Bản tiếng Hán: http://www.minghui.org/mh/articles/2012/5/26/【征稿选登】走出现代医学束缚-见证超常科学-257395.html

Bản tiếng Anh: http://en.minghui.org/html/articles/2012/6/17/134010.html

Đăng ngày: 26– 7– 2012. Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.